VỀ TRƯƠNG VĨNH KƯ
VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ VĂN BẢN,
LỐI NH̀N …
Nguyễn Vy Khanh
Những năm
cuối thế kỷ XX có một hiện tượng tiêu
cực và đặc biệt ngày càng trầm trọng,
đó là việc các nhân vật lịch sử và văn hóa Việt
Nam liên tục bị hạ bệ, vẽ trấu:
Nguyễn Huệ, Gia Long, Nguyễn Du, Nguyễn
Trường Tộ, Trương Vĩnh Kư, ... cũng
như một số lănh tụ, tướng lănh bất
kể phe phái nào. Có khi là những nỗ lực đi t́m
sự thực lịch sử, có khi là những đánh giá
lại, có khi gián tiếp chửi bới một chế
độ, phe nhóm, có khi v́ kỳ thị tôn giáo hay v́ mặc
cảm, dị ứng, biến ứng, có người riêng
rẻ, lại có những tổ chức qui mô. Sự
kiện 30-4-1975 đă chứng minh vai tṛ của „hoả mù“ tuyên
truyền, phản thông tin trong cuộc chiến tranh đó!
Trong một t́nh cảnh chung của người Việt lúc
này sống chết với ... lịch sử, với
hiện tượng hồi kư tạp loại, nhất là
tiểu thuyết lịch sử, dă sử. Dĩ nhiên đó
cũng là lư do trong nước gần đây (4-2000), tại
đại hội Nhà văn lần thứ 6, việc sáng
tác về các đề tài lịch sử đă
được Ban Chấp hành Hội Nhà văn đề
ra như là một phương hướng nhiệm vụ
cần thiết cho ngũ niên tới, 2000-2005 (1). “Hoả
mù“ cứ thế mà tiếp tục thôi ! Dĩ nhiên,
Trương Vĩnh Kư không thoát những đ̣n hỏa mù
đó! Từ ngày ông qua đời đến nay và qua
nhiều cuộc đổi đời, đă có nhiều
công tŕnh biên khảo và nghiên cứu về ông, khen có chê có.
Trong bài này chúng tôi với chủ ư đặt lại
một số vấn đề nghiên cứu căn bản,
do đó chỉ xin nêu ra một số sai lầm và nghi
vấn về con người và sự nghiệp
Trương Vĩnh Kư, một người Việt
Nam-kỳ, theo đạo Thiên chúa, làm việc cho Pháp và là
người mở đường báo chí và văn học
chữ quốc ngữ ở hậu bán thế kỷ XIX.
Ông sống đồng thời với Phan Thanh Giản,
Nguyễn Đ́nh Chiểu, Tôn Thọ Tường, Phan
Văn Trị, ... nhưng mỗi người một
cuộc đời khác nhau, đại diện cho các khuynh
hướng người Việt lúc bấy giờ
đối với thực dân Pháp thôn tính Nam-kỳ.
1. Người ta
thường phê phán Trương Vĩnh Kư làm việc
với kẻ thù ngoại bang tức người Pháp.
Bước đầu là làm thông ngôn cho
Hải quân Pháp là những người sẽ đánh
chiếm lục tỉnh. Phê phán dễ nếu không
đặt vào hoàn cảnh của đương sự. Sau
khi đi tu đạo Thiên-Chúa không thành và du học từ
năm 14 tuổi ở Poulo Penang, ông về thọ tang
mẹ năm 1858 (2), lúc đó 21 tuổi và nay mồ côi
cả cha lẫn mẹ, cũng là lúc triều đ́nh vua
Tự Đức gay gắt cấm đạo, từ
năm 1848 đến năm 1861 sáu lần ra chiếu
cấm đạo, như chỉ dụ 13 (1860) nói rơ không
cho người theo đạo làm quan chức và nếu
đang làm quan phải bỏ đạo nếu không sẽ
bị h́nh phạt („thắt cổ chết ngay“). Có
đạo là một „tội h́nh“, Trương Vĩnh Kư
sẽ làm nghề ǵ nếu không làm rẫy ruộng,
nhưng ông lại mồ côi, không thân thích! Năm 1860, sau khi
trốn khỏi trường Cái Nhum nơi ông tá túc và
dạy trẻ em, v́ bắt đạo, ông phải trốn
lên Sài-G̣n ở và làm việc cho giám mục Lefèbvre, nên khi
người Pháp cần thông ngôn gấp v́ không thể
tiếp xúc với dân chúng, chính giám mục này đă tiến
cử Trương Vĩnh Kư làm thông ngôn cho trung tá Hải
quân Jauréguiberry, tư lệnh Sài-G̣n. Lúc này thành
Gia-Định đă thất thủ, Trương Vĩnh Kư
lập gia đ́nh năm 1861 ở Chợ Quán. Nhưng công
việc này không được lâu v́ Trương Vĩnh Kư
đă có thái độ và quyết tâm làm theo ư nguyện
của ông. Theo một tài liệu ông Nguyễn Đ́nh
Đầu mới t́m thấy, Trương Vĩnh Kư
từng tỏ ra dù hợp tác với Pháp, vẫn cho họ
biết ông có con đường của ông. Một bức
thư của chỉ huy trưởng D’Ariès gửi đô
đốc Charner đề ngày 21-5-1861 đề cử
Trương Vĩnh Kư : “trong
số người Nam nói được ngôn ngữ của
chúng ta chỉ có một người tên là Petrus Kư là biết
khá rành rẽ có thể giữ các chức vụ Ngài
muốn thiết lập bên cạnh các thẩm quyền quân
sự của chúng ta“, nhưng D’Ariès than phiền thái
độ hợp tác lơ là của người thanh niên 23
tuổi này: „từng là nhân viên
Sở Sự vụ bản xứ Sài-G̣n, ông ta đă bị
sa thải v́ thiếu mẫn cán và tận tụy, rất
thông minh, rất có khả năng làm tốt công việc,
nhưng ông ta dần dà đánh mất sự tin
tưởng tạo được. Tôi không muốn chỉ
định ông ta để ngài chọn làm thông dịch viên
cho các hội đồng chiến tranh của chúng ta“. Dù
vậy vị tổng chỉ huy Charner nói trên vẫn
chọn Trương Vĩnh Kư và đưa ra các
điều kiện để D’Ariès chuyển lại
họ Trương ”40 đồng một tháng và phải
luôn có mặt tại Sài-G̣n“. Nhưng Trương Vĩnh Kư
không chấp thuận điều kiện đó và nhân
tiện bộc lộ tư cách của ông khiến D’Ariès
bực tức trong thư sau đề ngày 28-5-1861: „Tính kiêu căng và các yêu sách
của ông ta hơn tất cả những ǵ chúng ta có
thể tưởng tượng về ông ta (...) đ̣i 110
đồng với quyền làm công việc mà ông ta ưa
thích và rút lui khi nào không c̣n thích hợp...“ (3). Léonard Charner
là người đă đánh hạ đồn Chí Ḥa ngày
24-2-1861.
14
tàu chiến của liên-quân Pháp và Tây-ban-nha bắn vào cửa
Hàn (Đà Nẵng) lần đầu ngày 1-9-1858, và cũng
như sau này tấn công Bắc-kỳ lần thứ
nhất (1873), người Pháp đều gặp nhiều
khó khăn v́ người Việt theo đạo Thiên-Chúa
đă không hưởng ứng nổi dậy làm nội
ứng như người Pháp tiên liệu. Ngày 17-2-1859,
hải quân Pháp và Tây-ban-nha đă chiếm thành Gia
Định, rồi đến tháng 12-1861 chiếm hết
ba tỉnh miền Đông Nam-kỳ, đưa đến
hoà ước Nhâm Tuất (5-6-1862). Trương Vĩnh Kư ra
Đà Nẵng làm thông ngôn trong việc kư hoà ước và
đ̣i bồi thường chiến phí này, ông đă tỏ
ra có khả năng nghị luận và thẳng thắn khi
phải tế nhị giữa hai bên, đă được
cả hai phe để ư. Cho nên tháng 6-1863 cụ Phan Thanh
Giản đă yêu cầu Trương Vĩnh Kư làm thông ngôn
cho phái đoàn đi Paris và Madrid xin chuộc lại ba
tỉnh miền Đông - trong khi đó một số
người như „sử gia“ Vũ Ngự Chiêu sai lầm
khi nói ông làm cho Pháp, tức theo phái đoàn Pháp. Không thành, và
rồi ba tỉnh miền Tây cũng bị Pháp chiếm
nốt. Cụ Phan Thanh Giản đă phải uống
thuốc độc tự vận ngày 20-6-1867 sau khi đành
nộp thành Vĩnh Long cho Pháp để tránh chết chóc cho
người dân v́ cụ đă thấy và hiểu ta không
thể chống cự lại khí giới tối tân của
người Pháp. Trương Vĩnh Kư lựa chọn con đường
hợp tác sau mới rơ ra là ảo tưởng v́
người Pháp không thực tâm „khai hóa“, nhưng lúc đó,
họ Trương không có lựa chọn khác. Đó chỉ
là bước đầu v́ Trương Vĩnh Kư đi xa
hơn và để lại cho hậu thế một gia tài
văn hóa quan trọng mà chúng ta nên b́nh tâm luận xét. Cụ
Phan hiểu thế yếu đă tự xử cho trọn
đạo quân-thần, Hoàng Diệu và Nguyễn Tri
Phương tự t́m cái chết cũng cho phải đạo.
Cụ Nguyễn Đ́nh Chiểu ở hoàn cảnh khác,
cũng trốn tránh kẻ thù, không hợp tác. Tất
cả trung thành với đạo nho, hôm nay có người
phê b́nh là „hủ nho“ (4). Trong bối cảnh lịch sử
đó, Trương Vĩnh Kư đă lựa chọn con
đường hợp tác với kẻ thù và mong chờ
cơ hội để người Pháp hiểu con
người Việt Nam, cũng là cách để
người công-giáo trở về với dân tộc -
như Nguyễn Trường Tộ sau này, chứng minh
với người Pháp là người Việt theo
đạo Thiên-Chúa không hẳn sẽ dễ bảo, dễ
theo Pháp để phản bội lại dân tộc! Hôm nay
chúng ta phê b́nh dễ dàng, v́ không sống trong hoàn cảnh. C̣n
phê b́nh hợp tác với kẻ thù, sau ông, „chúng ta“ cũng
đă hợp tác với kẻ thù Trung-Hoa rồi Pháp và
Mỹ ! Nếu suy luận từ những thư tín của
các vị thừa sai th́ cũng nên xem lại những lá
thư mà ông Nguyễn Đ́nh Đẩu đă khám phá như
nói trên! Ngoài ra, cũng nên ghi nhận Trương Vĩnh Kư
từng làm thông ngôn cho sứ thần Tây-ban-nha yết
kiến vua Tự Đức năm 1870 và làm việc cho
đại sứ nước này ở Trung-Hoa năm 1874!
2. Trương Vĩnh Kư làm
báo cho Pháp
Gia
Định Báo lúc đầu là một
thứ công báo của chính quyền thực dân Pháp, nhưng
từ 1869 (nghị định 189 ngày 16-9-1869), Trương
Vĩnh Kư, một cộng tác viên từ 1865, được
cử làm Chánh-tổng-tài và Húnh Tịnh Paulus Của làm
chủ bút, Tôn Thọ Tường, Trương Minh Kư, v.v.,
trong ban biên tập. Gia Định Báo được thêm
phần truyền bá chữ quốc ngữ, khuyến khích
dùng thứ chữ này để viết báo viết văn -
báo khuyến khích độc giả viết chuyện ở
các địa phương họ ở bằng chữ
quốc ngữ; và cổ động cho lối học
mới. Từ 4 trang lên 16 trang. Vô t́nh, Gia Định Báo
đă đóng vai tṛ tiền phong truyền bá cái về sau
gọi là văn học chữ quốc ngữ. Đến
năm 1874, J. Bonet được cử làm chánh tổng tài
thay Pétrus Kư, th́ tờ Gia Định Báo trở lại
với vai tṛ thông tin tuyên truyền cho chính quyền
thuộc địa và rút lại 4 trang như trước.
Trương Vĩnh Kư chỉ làm báo cho Pháp một thời
gian ngắn trong suốt quá tŕnh hoạt động văn
hóa của ông. Ngoài ông ra, làm báo theo lệnh Pháp hay nhận
tiền của Pháp c̣n có Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm
Quỳnh, Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bá Học, Hồ Biểu
Chánh, Nguyễn Đức Quỳnh, ... Nếu thêm danh tính
các khuôn mặt lớn khác đă làm báo cho Pháp, Trung-cộng,
Liên Xô, cho Mỹ trước và sau 1975,... danh sách sẽ dài
ra!
3. Chữ
quốc ngữ
Trương
Vĩnh Kư thông thạo nhiều thứ tiếng và cả
chữ Nôm chữ Hán, nhưng ông đă có cái nh́n thực
tiễn khi cổ động việc xử dụng
chữ quốc ngữ để thay thế hai thứ
chữ không đến được dân gian. Ông viết,
phiên âm và phiên dịch các tác phẩm chữ Nôm, Hán qua
chữ quốc ngữ, mà các bản dịch Tứ Thư
Ngũ Kinh đă là những công tŕnh quí hiếm v́
trước đó chưa bậc tiền bối nào đă
dịch ra chữ Nôm! Ông lại soạn tự điển
và viết sách văn phạm tiếng Việt, làm chuyện
đến lúc đó chưa ai làm qui mô. Trong bộ Sơ
Học Qui Chánh (Manuel des écoles primaires) gồm 3 tập mà
cuốn đầu Syllabaire Quốc ngữ xuất bản
năm 1876, Trương Vĩnh Kư đă cho biết „Chữ quốc ngữ phải
trở thành chữ viết của đất nước.
Phải như thế v́ lợi ích và sự tiến hóa.
Vậy, người ta nên t́m cách phổ biến thứ
chữ này bằng mọi phương tiện ...“ (5)
Cuốn
Chuyện Đời Xưa (6) của Trương
Vĩnh Kư in năm 1866 là ấn phẩm văn xuôi
đầu tiên bằng chữ quốc ngữ; chúng tôi
nhấn mạnh ấn phẩm v́ trước ông đă có
những bản viết tay bằng chữ quốc ngữ
của các vị thừa sai và tu sĩ người
Việt, như Bento Thiện đă viết về lịch
sử Việt Nam năm 1659, và đă có những cuốn
tự điển của A. de Rhodes (Đắc Lộ),
Tabert và Phan Văn Minh, v.v. Tập từ điển của
Tabert (1838) có phụ lục chuyện Inê Tử Đạo
Văn gồm 560 câu thơ lục bát.
Người ta đă cho rằng v́ ông làm tay
sai cho thực dân và v́ là người theo đạo Thiên-Chúa
nên cổ động chữ quốc ngữ là chữ
của thực dân và nhà Chung. Phạm Long Điền
nhấn mạnh ư này nhất. Ở đây cũng nên nêu
một hiểu lầm khác: trước nay dư luận
vẫn cho rằng các vị thừa sai người Bồ
rồi Pháp đă buộc người Việt theo
đạo Thiên-Chúa phải dùng chữ quốc ngữ và có
người c̣n gán tội người Thiên-Chúa giáo đă
đồng hoá chữ Nôm và Hán là chữ của „ngoại
đạo“. Đây chỉ là một thuần suy diễn
thiếu căn bản lịch sử. Những khám phá
gần đây ở Việt Nam của nhóm các linh mục
Thanh Lăng và Nguyễn Hưng đă góp phần làm sáng tỏ
sự „mất gốc“ của người Việt Nam theo
đạo Thiên-Chúa : chỉ riêng thế kỷ XVIII, các nhà
tu hành và giáo dân đạo Thiên-Chúa đă biên soạn
khoảng 14 tác phẩm chữ Nôm gồm khoảng 1
triệu hai trăm ngàn chữ với bốn ngàn hai trăm
trang hiện c̣n t́m được, trong khi trong cùng thời
gian, họ chỉ biên soạn khoảng 700 trang chữ
quốc ngữ, tức sáu lần ít hơn (7)! Vậy
đồng hoá người theo đạo Thiên-Chúa với
chữ quốc ngữ làm „mất nước“ và mất
„hồn nước“ tựu trung cũng chỉ một
huyền thoại, một suy diễn thiếu căn
bản lịch sử! Ngoài ra có những tu sĩ Việt
Nam đă có cái nh́n nếu không dân tộc th́ cũng đi
trước thời đại, như linh mục Lữ-Y
Đoan đă diễn dịch Kinh Thánh thành Sấm Truyền
Ca năm 1670. Ông đă dùng những ư niệm và ngôn ngữ
của tam giáo á-đông và văn hóa dân gian Việt Nam
để hiểu và diễn dịch Kinh Thánh và giới giáo
quyền từ thời đó đă không cho phổ biến
v́ „trái“ luật đạo - cho đến thời Vaticano
thứ hai (1962-65) (8). Một trí thức dù theo đạo
vẫn không mất gốc, Trương Vĩnh Kư sau này
cũng đi theo con đường của ông! Sự
thực th́ chữ quốc ngữ trước hết là
một phương tiện cho các nhà truyền giáo dùng trong
nội bộ giúp nhau ghi lại và hiểu tiếng
Việt, rồi đến các cộng đoàn đạo,
đến giữa thế kỷ XVIII chữ quốc
ngữ phát triễn hơn v́ lư do cấm đạo và
việc xử dụng bắt đầu tiện lợi.
Theo nhà nghiên cứu Rolland Jacques, chữ quốc ngữ lúc
đầu chủ yếu mô tả phát âm nhằm giúp
người ngoại quốc mới học, nhưng
về sau khi đă phổ biến đối với
người Việt th́ khía cạnh âm-vị-học
được ưu tiên hơn, dấu vết hăy c̣n đó
trong các tự điển và tranh luận về các cách phiên
âm Nôm ra quốc ngữ (9)!
Thứ
nữa là lư luận chữ quốc ngữ là chữ
của thực dân xâm lược. Đây là một suy
diễn khác. Chữ quốc ngữ nguyên do các thừa sai
người Bồ-đào-nha và người Nhật sang
truyền đạo ở Việt Nam từ những
năm 1620 lập ra để tiện lợi hoá việc
biên chép và giao thiệp. Linh mục Đắc Lộ
(Alexandre de Rhodes) chỉ là người đă phụ trách
việc tu chính lại những tự điển đă có
lúc đó nhưng phổ biến hạn chế trong nội
bộ, và in ấn cuốn sách chữ quốc ngữ
đầu tiên : Tự điển Việt-Bồ-La / Dictionarivm
Annamiticvm Lvsitanvm, et Latinvm...
(xin chú ư: Việt-Bồ-La chứ không có chữ Pháp trong
cuốn tự điển này cũng như cuốn kể
sau!), và Phép Giảng Tám Ngày.../ Cathechismvs pro ́s.... Ông
đă tổng soạn lại những công tŕnh trước
đó của các thừa sai người Bồ (10) và lúc linh
mục Đắc Lộ người Pháp in ấn cuốn
tự điển nói trên năm 1651, Pháp chưa đem
hải thuyền chiếm Việt Nam v́ lúc đó là thời
của Bồ-đào-nha và Tây-ban-nha làm chủ mặt
biển, và đến một thế kỷ rưỡi sau,
khi giám mục Bá-Đa-Lộc cầu cứu vua Pháp giúp chúa
Nguyễn Ánh, vua Louis XVI dù đă kư hiệp ước
Versailles hứa giúp chúa Nguyễn vẫn không hề nghe theo
để lợi dụng cơ hội xâm chiếm Việt
Nam ! Thứ nữa, giáo sĩ Đắc-Lộ đi
á-đông truyền giáo đă thề phục vụ vua
Bồ-đào-nha. Suy luận có thể diễn dịch
từ sinh quán Avignon của ngài ở Pháp. Ngộ nhận
thứ hai do câu văn A. de Rhodes viết tường tŕnh
chuyến đi lần sau. Trong Divers voyages et missions (Paris,
1653) đoạn cuối chương 19, phần 3, ông
viết như sau : „J’ai cru que la France, étant le plus pieux royaume
du monde, me fournirait plusieurs soldats qui aillent à la conquête de tout
l’Orient, pour l’assujetter à Jésus Christ, et particulièrement que j’y
trouverais moyen d’avoir des Évêques, qui fussent nos Pères et nos Maitres en
ces Églises...“. Chữ „soldats“ ở đây phải hiểu
theo nghĩa thứ nh́ là „chiến sĩ“ mà phải là
„chiến sĩ phúc-âm, nhà truyền giáo“, thứ nữa không
nên quên sinh quán của ngài là đất của giáo hoàng! Lính
Pháp vào năm 1653 chưa lên đường đi chiếm
thuộc địa mà Hội Truyền giáo Paris cũng
chỉ được lập sau đó, năm 1661!
Những người chỉ tra từ điển
thường, đă cố ư bới móc chi tiết với ư
bôi xấu, bẻ quặt lịch sử dễ rơi vào
cái bẫy kiến thức chủ quan, thiên kiến hoặc
ám ảnh paranoiac! Cuốn A. de Rhodes Người Đầu
Tiên Vận Động Pháp Chiếm Việt Nam Và Chữ
Quốc Ngữ (11) là một thí dụ điển h́nh,
một thủ thuật khả nghi, vơ địch chính
trị làm đồng minh để chống địch
tôn giáo, thu góp bài viết mù mờ lư luận, thường
đă cũ 30, 50 năm và cũng không cho biết diễn
biến tư tưởng các người viết, coi
thường độc giả ! Trong nước, sau
nhiều „cơn băo“, cái nh́n của người nghiên
cứu đă theo sự thật. Mới đây trong Giao
Lưu Văn Hóa Và Ngôn Ngữ Việt Pháp của Viện
Ngôn ngữ học do Ṭa đại sứ Pháp ở
Hà-nội giúp xuất bản, Lư Toàn Thắng đă đánh
giá lại sự đóng góp của Alexandre de Rhodes đối
với sự thành h́nh chữ Quốc ngữ kết
luận de Rhodes chỉ là người đóng góp một
phần và chữ quốc ngữ của ông dù khá hoàn
chỉnh vẫn chưa có h́nh thức như nay, do đó
„cũng không thể nói là ông đă kiện toàn hay hoàn thành
chữ quốc ngữ“ (12) mà nên dành công đó cho Pigneau de
Béhaine!
Thật
ra chỉ là một t́nh cờ của lịch sử mà
chữ quốc ngữ đă trở thành công cụ cai
trị của người Pháp. Phải nói chính
người Pháp đă „lợi dụng“ thứ chữ lúc
đó đă thông dụng trong giới tu hành đạo
Thiên-Chúa để làm ngôn ngữ công văn và hành chánh, sau
đó người Pháp mới có ư muốn người
Việt quên đi văn hóa dân tộc để dễ
đồng hoá khi cho dịch Hán Nôm ra quốc ngữ. Và
chính người Pháp đă đánh sai dư luận, như
Georges Taboulet trong La Geste francaise en Indochine đă viết „Cha
Alexandre de Rhodes đưa Kitô giáo và nước Pháp vào
Việt Nam“ (13). Một loại tuyên truyền chính trị !
Người Việt thiển cận đă không tham
chiếu và đă lập lại luận điệu của
... thực dân! Dĩ nhiên có những vị thừa sai
thực dân như giám mục Puginier đă tiếp tay cho
nước Pháp của họ khi đánh Bắc-kỳ
lần thứ nhất, nói là để vinh danh „nước
Chúa“ thật ra chỉ v́ quyền lợi nước
họ, hai thế kỷ sau câu viết gây hiểu lầm
(ngoan cố) của A. de Rhodes nói trên! Ngoài ra lịch sử
cũng ghi rằng các sĩ quan hải quân Pháp đă
ngần ngại dùng các giáo sĩ trong việc đánh
chiếm Nam-kỳ cũng như Bắc-kỳ! Pháp
đến để bảo vệ người theo
đạo đă trở thành huyền thoại, v́ đó
chỉ là cái cớ, phương tiện cho mưu
đồ xâm lăng của thực dân! Và chữ quốc
ngữ đă là công cụ của Pháp, trong thực tế
lịch sử cũng không hẳn vậy v́ sau vài
bước đầu, thực dân Pháp đă thay thế
chữ quốc ngữ bằng chữ Pháp trong chương
tŕnh giáo dục, chữ quốc ngữ trở thành thứ
yếu, „chỉ là ngôn ngữ thông dụng chứ không
phải là một ngôn ngữ văn hóa“, nói theo Bằng Giang
(14). Trương Vĩnh Kư đóng góp cả đời
với tin tưởng ở chữ quốc ngữ, trong
khi thực dân chỉ lợi dụng chữ quốc
ngữ khi cần đến; nhưng cũng nhờ những
tiền bối như ông, nếu không nước ta đă
rơi vào t́nh trạng của Phi-luật-tân!
Không
những cổ động chữ quốc ngữ,
Trương Vĩnh Kư c̣n có một chủ trương
rất dứt khoát về tiếng Việt. Có hai khía
cạnh: thứ nhất ông chủ trương dùng
tiếng Việt của tổ tiên khởi từ Bắc
sau Nam tiến, thứ tiếng t́m thấy trong văn
chương truyền khẩu và một số truyện Nôm
như tuyện Kiều, Phan Trần,... Tức không pha
chữ Hán, như thầy giảng Lữ-Y Đoan đă làm
với Sấm-truyền ca trước thời
Trương Vĩnh Kư. Câu văn cũng được
Trương Vĩnh Kư chăm sóc và nếu so sánh các văn
bản lúc đầu như bài viết trên Gia-Định
Báo và Chuyện Đời Xưa (1866) với các bài viết
cuối đời ông sẽ thấy có sự „tiến
bộ“ tức hợp lư, sáng sủa và dễ hiểu
hơn. Chính Phạm Long Điền cũng công nhận
tiếng Việt của Trương Vĩnh Kư, Húnh
Tịnh Paulus Của, .. không có nhiều lỗi chánh tả
như tiếng Việt trên sách báo trong Nam hồi
đầu thế kỷ XX (15)! Các nhà nghiên cứu văn
học đă gọi đó là trường phái Trương
Vĩnh Kư, đồng thời và sau ông có Nguyễn Trọng
Quản, Trương Minh Kư, ... Nhưng bên cạnh có
những người Nam viết sai theo nói sai. Chính đó là
lư do văn viết trong Thầy Lazarô Phiền dễ
hiểu hơn nhưng đă bị trường phái „b́nh
dân“ lấn lướt! Mà ngày nay hai khuynh hướng
viết ngôn ngữ miền Nam này vẫn c̣n thấy rơ
ở Lê Xuyên, An Khê, Ngọc Linh, Vơ Kỳ Điền,
Nguyễn Tấn Hưng, Phùng Nhân, ... hoặc Nguyễn
Văn Sâm, Hồ Trường An, Kiệt Tấn.
4. Ông đă viết rất
nhiều sách báo giới thiệu đất nước và
con người Việt Nam, dĩ nhiên
bằng tiếng Pháp: Souvenirs historiques sur Saigon et ses environs,
Précis de géographie de l’Indochine, Produits de l’Annam, Dictionnaire
biographique Annamite,v.v. Ngoài ra ông c̣n biên soạn nhiều
bộ sách khảo cứu bằng tiếng Việt như
Đại Nam Tam Thập Nhứt Tỉnh Thành Đô,... Ông
là người đầu tiên làm cái việc mà ngày nay
người ta gọi là Việt-Nam-học, sau ông có G.
Dumoutier, L. Cadière, v.v. V́ là người đầu tiên làm
việc một cách khoa học nên đă bị nghi làm rapport cho
„Tây“ chăng ? Những công tŕnh này đă được
giải thưởng của Hội địa lư Pháp và
được „quốc tế“ nh́n nhận như những
tài liệu căn bản. Tưởng cũng cần
nhắc ở đây công d́u dắt Trương Vĩnh Kư
ở bước đầu của một nhà truyền
giáo người Pháp, Bovillevaux, người đă có công phát
hiện Đế Thiên Đế Thích, Trương Vĩnh
Kư vẫn hay nhắc đến với tên Việt „cố
Long“ (3), bạn của thân sinh ông thuở sinh thời, trong
thực tế là cố đạo duy nhất đă ảnh
hưởng lên Trương Vĩnh Kư nếu có!
Việc
giới thiệu này của ông đă bị các ông Mẫn Quốc,
Phạm Long Điền, ... kết án là cung cấp tài
liệu cho thực dân dễ chiếm hữu lănh thổ
Việt Nam. Đây là nói đến cuốn Chuyến Đi
Bắc-kỳ năm Ất Hợi và bản báo cáo đính
kèm gửi đô đốc Duperré! Ông Mẫn Quốc
kết án ông có „nhiệm vụ đặc phái“ làm „ gián
điệp, t́nh báo, gịi trong xương gịi ra“(16). Phạm
Long Điền kết : „Chuyến đi Bắc-kỳ
của Trương Vĩnh Kư năm 1876 không ngoài mục
đích xem xét t́nh h́nh để báo cáo tường tận
cho Soái phủ Nam-kỳ và từ đó, Soái phủ
Nam-kỳ chuẩn bị tiến quân ra Bắc trong một
cuộc xâm lăng đại qui mô nhằm đặt toàn
cơi Đông dương dưới quyền thống trị
của thực dân Pháp“ (17). Có thể Trương Vĩnh Kư
ngây thơ v́ quá thành thật và tự tin vào vai tṛ trung gian
của ḿnh mà không thể ngờ là người Pháp lợi
dụng ông chăng ?
5. Phương pháp nghiên
cứu của Trương Vĩnh Kư đă khoa học,
bằng giả thuyết và văn bản.
Đến
hậu bán thế kỷ XX bên Âu tây mới có thuyết
đề cao văn bản, thế mà Trương Vĩnh
Kư ở hậu bán thế kỷ XIX đă xử dụng
để nghiên cứu văn học ! Trương Vĩnh
Kư đă xử dụng phương pháp khoa học tiến
bộ so với phương pháp biên niên sử theo Trung Hoa
của thời đó, ông là người đầu tiên biên
soạn lịch sử Việt Nam mà lại bằng
tiếng Pháp. Hai tập Petit cours d’histoire annamite (Giáo Tŕnh
Lịch Sử An-Nam) xuất bản năm 1875 và 1877,
cả hai tổng cộng khoảng 462 trang. Tập 1
viết về thời lập quốc đến nhà
hậu Lê (2874 AD - 1428), tập sau từ 1428 đến 1875.
Ông là người đầu tiên đă chứng minh lịch
sử Việt Nam đă khởi đầu từ hơn
4000 năm, theo ông thời xa xưa nhất của lịch
sử Việt Nam khởi từ năm 2874 trước Công-nguyên
với 20 đời vua Hồng Bàng, 18 đời vua Hùng
Vương và đời Thục An Dương Vương
(tr. 7-17). Vận dụng, khai thác nguồn văn thư
tịch và truyền thuyết, truyện cổ, ông đă
dựng cơ sở lịch sử cho thời „huyền
sử“, ông dựng lại đời sống, con
người và xă hội thời xa xưa đó . Theo ông, „các sử gia biên niên xưa
nhằm xu nịnh vua chúa, đă đặt ra những
huyền thoại để khẳng định thiên
mệnh của nhà vua. C̣n dân gian th́ trong các chuyện truyền
khẩu, đă biết ngược ḍng thời gian xa xôi
trong cái thời điểm mà lịch sử không c̣n dấu
vết, có chăng chỉ c̣n dấu tích trong các ngọn
nguồn thâm sâu huyền hoặc của thần thoại.
Người ta không thể coi thường những
chuyện kể ở những thời xa xưa, bởi v́
mặc dù chúng có khó hiểu, thậm xưng, hoặc không
chặt chẽ nhưng người ta vẫn có thể rút
ra, từ sự tưởng tượng và cả những
nhận thức sai lầm trong đó, những kiến
thức về những cái có thể có thực, hoặc ít
ra là một phương hướng một dấu vết
khả dĩ dùng được để t́m ra sự
thực“ (18).
Thật
vậy, ông đă vận dụng nhiều phương pháp
khoa học và là người đi đầu viết
lịch sử dân gian thay v́ chỉ chú trọng giới vua
chúa quan quyền, mà khi viết về mỗi triều
đại ông cũng đă viết về đời
sống xă hội cũng như các khía cạnh kinh tế,
văn hóa, ngoại giao, v.v.. Không bị ràng buộc như
các quan sử lịch triều, sống ở đất
thuộc địa, lại có một căn bản bác
học, nhờ đó ông có cái nh́n tổng quát và chứng
tỏ cố gắng khách quan. Khi viết chuyện vua Lê Chiêu
Thống chết bên Tàu được liệm để
đưa về chôn ở quê nhà, khi liệm người ta
đă t́m thấy tim vua c̣n tươi đầy máu, ông bàn „Đó chỉ là một chuyện
bịa đặt không căn cứ, kết quả của
những tṛ phỉnh gạt thô bỉ và phạm
thượng” („C’est une invention fantaisiste, le résultat de
quelque grossière et profane mystification“ (tr. 207). Ông đă luận
công tội các triều đại xưa và vinh danh các anh
hùng dân tộc. Ng̣i bút trở nên đanh thép khi viết
về Hai Bà Trưng : „Suốt
149 năm (111 av CN đến 38 CN) nước An nam đă
phải chịu đựng cái ách của các viên quan cai
trị Trung quốc. Nhưng cuộc đô hộ rồi
cũng phải bị tiêu diệt, như tất cả
những ǵ bắt nguồn từ những quá độ
của bạo lực: ách đô hộ đă bị bẻ
găy bởi bàn tay của một người phụ nữ“(19).
Hay khi xét mặt trái chuyện Sĩ Vương : „Sĩ Vương đă du
nhập sang ta nền văn học Trung quốc, cũng
như đạo lư Khổng Tử, ép buộc nhân dân An-nam
phải tiếp nhận làm của ḿnh, và cấm dùng
thứ chữ viết phiên âm đặc biệt riêng
của người An-nam. V́ biện pháp nghiệt ngă ấy
mà người An-nam đă hoàn toàn mất đi thứ
chữ viết riêng của ḿnh“. (20).
Xét
chuyện xưa đưa đến phê phán nặng nề
chuyện nay : „Dù người
An-nam là công dân của nước Pháp hay của Bắc,
Trung kỳ đều có chung một nguồn gốc. Dù
bị ngăn chia (với phần c̣n lại nước
Việt) v́ vận mạng chính trị, chúng tôi vẫn
phải phản đối mạnh mẽ cái chế
độ cai trị lầm lạc đă biến dân chúng
thành bầy thú của vua, và là một sự bóc lột
trầm trọng, có tội với xứ sở“. Ông
liền ghi chú xin lỗi :“Nhưng
xin người đọc đừng giận tôi v́ trong tôi
tràn ngập một nỗi buồn cay đắng khi
thấy đất nước phải ra nông nỗi này,
chuyện đáng ra không đáng phải xảy ra“ (21).
Đây là lần hiếm hoi ông lộ rơ bất b́nh
đối với vua quan Tống-nho nhà Nguyễn. Bộ
Đại Nam Việt Quấc Triều Sử Kư xuất
bản sau (1879) (8) cũng được viết ngoài ṿng
cương tỏa của triều đ́nh nhà Nguyễn,
như bộ của Trương Vĩnh Kư, nhưng bộ
sử của họ Trương có cái nh́n quán triệt và
tổng quan hơn nhiều! Cụ Nguyễn Văn Tố
trong bài tiếng Pháp „Petrus Kư“ trên tập Kỷ yếu
của Hội Trí tri Bắc-kỳ năm 1937 đă dành 10
trong 42 trang để phân tích và phê b́nh cuốn sử này,
đă đề cao phương pháp sử có cơ sở :
„… Đă đến lúc tính uyên
bác Nam kỳ thay thế cho những quyển sách cũ
kỹ ấy, đến lúc đó loại trừ, một
mặt, tất cả những thứ tạp nhạp
gọi là thông tin mượn ở sách vở Trung quốc
và mặt khác dành một vị trí xứng đáng cho
những dữ kiện chính xác và phong phú rất mực do
sử kư ta cung cấp“ (22). Trương Vĩnh Kư
cũng đă để lại một bản thảo “Truyện Đất Nam-kỳ
lịch sử Đàng Trong” bằng chữ quốc
ngữ viết năm 1864 „xưng tụng các chúa Nguyễn
bằng vua“(23). Ông c̣n tỏ ra là một nhà ngôn ngữ
học thông thái, với những công tŕnh nghiên cứu
về ngôn ngữ Việt, á-đông và nhiều nước
như Étude comparée sur les langues, les écritures, les croyances et les
moeurs de l’Indochine, Analyse comparée des principales langues du monde, v.v.
Những công tŕnh được nhiều nhà nghiên cứu
Việt và Âu-Mỹ đánh giá cao như J. Thomson trong Dix ans
de voyages dans la Chine et l’Indochine (1873), J. Bouchot trong Un savant et
compatriote cochinchinois : Petrus J.B. Trương Vĩnh Kư (1925),
cả nhà ngữ học Cao Xuân Hạo trong nước qua
bài „Trương Vĩnh Kư trong lịch sử ngôn ngữ
học VN“. (24).
6. Nhưng trên hết, qua
sự nghiệp để lại, Trương Vĩnh Kư
đă chứng tỏ có chủ trương làm công tác
văn hóa cho dân tộc.
Nổi
tiếng bác học quốc tế, tinh thông hơn hai
chục sinh và tử ngữ, ông lại cổ vơ luân lư Nho
giáo, ông là người có nhiều ấn phẩm về
đạo lư hơn các nhà văn hoá tiền phong chữ
quốc ngữ khác như Húnh Tịnh Paulus Của,
Trương Minh Kư. Hành trang của Trương Vĩnh Kư là
của một con người trí thức, ngoài những
chức chính thức khi làm việc với Pháp, suốt
đời cặm cụi v́ văn hóa, có khi trong những
hoàn cảnh khó khắn về tài chính và cô đơn không
được người đồng thời thông
hiểu cho, c̣n người Pháp dĩ nhiên lợi dụng
hơn là hợp tác về văn hóa! Trong Sĩ-Viện
Thư-Phổ tức Catalogue sách xuất bản của ông
in năm 1894, ông đă bày tỏ tư duy của ḿnh,
một ư tưởng dẫn đạo công việc của
ông : „V́ cũng nghĩ thế
cục ngày nay như những lớp sóng xô t́nh người
đến chỗ phụ nghĩa, chính đạo mỗi
ngày một suy đồi, thuần phong mỹ tục ngày
càng bị buông xuôi“ (25). Trái với ngộ nhận
của nhiều người, ông không hề dịch sách Pháp
ra quốc ngữ và không hề giới thiệu văn hóa
Pháp; có chăng là ông giới thiệu văn hóa và
đất nước Việt Nam bằng tiếng Pháp. Ông
cũng là soạn giả nhiều cuốn tự
điển đă xuất bản hoặc mới in
thạch bản. Ông giới thiệu địa lư, lịch
sử văn hóa của Việt Nam với hy vọng người
Pháp hiểu dân tộc nhược tiểu bị trị
hơn. Ông không hề khuyến khích, cổ động
đồng bào ông học tiếng Pháp, theo văn hóa và phong
tục ngoại lai. Suốt đời dù làm với Pháp hay
không, ông chỉ mặc bộ áo dài thuần Việt! Thông
hiểu chuyện thế giới, nh́n thấy sự
tiến bộ về khoa học và kỹ thuật của
người, ông đă có sẵn kết luận cho dân
tộc ông, con đường mà ông đă vạch và đi
đến cuối đời. Hợp tác với chính
quyền thực dân nhưng con người và tâm hồn ông
vẫn gắn chặt với đất nước,
tổ tiên, ông vẫn coi ḿnh là đồng bào với
người Trung Bắc. Ngược lại, Trương
Vĩnh Kư luôn đề cao và phổ biến đạo lư
đậm truyền thống dân tộc. Khi làm việc lănh
lương của chính quyền Pháp, như khi làm Gia
Định Báo, ông lợi dụng để phổ
biến thơ văn yêu nước, phiên âm ra quốc
ngữ - nhờ đó mà thơ văn này có thêm dịp may
lưu lại cho hậu thế. Vào cuối đời,
hết được người Pháp trọng dụng,
ông vẫn bền chí biên soạn sách vở và trực
tiếp lo việc xuất bản. Năm 1888, Trương
Vĩnh Kư xuất bản tạp chí Thông Loại Khóa Tŕnh
(Miscellannées ou Lectures instructives pour les élèves des écoles primaires,
communales, cantonales et les familles - b́a tiếng Pháp nhưng
ruột tựa và bài vở quốc ngữ, để
dễ qua mắt thực dân chăng?) với mục
đích cổ động phong hóa cũ, phổ biến
văn hóa dân tộc kể cả văn thơ chống Pháp
của Nguyễn Đ́nh Chiểu, Nguyễn Tri
Phương, Bùi Hữu Nghĩa,... nhưng thiếu
vốn, tạp chí chữ quốc ngữ tư nhân
đầu tiên đó chỉ ra được 18 số
(tháng 5 đến 10-1889). Từ số 4 tăng từ 12 lên
16 trang và ngoài TVK ra, từ số 6 tăng cường thêm
Húnh Tịnh Paulus Của, Trương Minh Kư, Trần Chánh
Chiếu, Lương Khắc Ninh,... Mỗi số giá 60 xu
thời bấy giờ bằng giá một tạ lúa, bưu
điện chưa có, người mua phải đến
tận Chợ Quán để mua!
Trương
Vĩnh Kư dịch trọn bộ Tứ Thư, Ngũ Kinh
nhưng đến khi qua đời mới chỉ xuất
bản được hai cuốn là Đại Học và
Trung Dung (1889) của bộ Tứ Thư. C̣n hai cuốn
Luận Ngữ và Mạnh Tử chỉ mới in ở
dạng thạch-bản. Trong khi Vơ Phiến đề cao
Phạm Quỳnh trừu tượng hóa tiếng Việt
(TK21) th́ giáo sư Nguyễn Văn Trung đă thán phục
Trương Vĩnh Kư đă dịch cả phần siêu h́nh
học trong khi ngôn ngữ ta lúc đó chưa có sẵn
chữ (26)! Trương Vĩnh Kư chăm sóc ra bộ
học báo Thông-Loại Khoá-Tŕnh để phổ biến
văn hóa và thơ văn dân tộc, cả thơ văn yêu
nước của Nguyễn Đ́nh Chiểu, Bùi Hữu
Nghĩa, Nguyễn Tri Phương, Phan Văn Trị,...
Bằng
Giang trong Sương Mù Trên Tác Phẩm Trương Vĩnh
Kư sau khi lược qua cuốn Sơ Học Vấn Tân
của Trương Vĩnh Kư đă thú nhận : „Đọc hết tác phẩm,
người ta tưởng tác giả là một nhà Nho chính
tông chớ không phải là một người thuộc
đạo ḍng (Thiên-Chúa giáo)“ (27). Trương Vĩnh Kư
có cái nh́n tổng hợp, ông muốn dung ḥa cũ mới .
Theo ông, „học th́ chẳng
phải là học cho biết chữ, cho thuộc tiếng
mà thôi, mà lại phải học nghĩa lư, phép tắc,
lễ nghi, cang thường luân lư là giềng mối mà xử
trí trong việc ăn ở trong đời với thiên
hạ ấy là lịch là thanh. Nên phải do cựu tùng tân
mới là phải, chẳng nên mới chuộng cũ vong mà
mang tiếng yểm cựu nghinh tân...“ (28). Để
nhấn mạnh cái nh́n tổng hợp cần thiết cho
người Việt Nam này mà khi xây trường trung
học mang tên ông ở Sài-G̣n đă có câu đối
được khắc trước cổng (nay đă
bị Hà Nội đục bỏ) : „Khổng Mạnh cương thường tu khắc
cốt / Tây Âu khoa học yếu minh tâm“. Một lời
nhắn nhủ khác, ghi lại ở đầu sách Petit
cours d’histoire annamite, nhắm kẻ hậu sinh : „Cho học tṛ các trường
đất Nam-ḱ. Ớ các tṛ trai, ta xin kiếng sách nầy
cho các tṛ v́ làm nó ra là làm cho các tṛ coi (...). Đến sau, khi anh em học đă thành tài, biết
bắt, biết hạch được, th́ xin hăy dong
thứ cho kẻ lớp trước anh em, v́ những
kẻ ấy thuở trước chẳng có
được những phương tiện mà học-hành
như anh em bây giờ nhờ...” (tr. 4).
Ông
lại chứng tỏ tài cao về chữ Nôm lúc bấy
giờ chưa có tự điển và gần như ai
viết sao th́ viết. Chính Nguyễn Văn Tố trong
lời Tựa cuốn Trương Vĩnh Kư của Lê Thanh
đă ghi nhận: „Những truyện
nôm như truyện Kiều, truyện Phan-Trần, mà ông
dịch ra quốc ngữ đầu tiên, tất cũng có
chữ sai, nhưng không nên vin vào đấy mà phê b́nh, v́
chữ nôm của ta là một thứ chữ không có tự
điển, mỗi người viết một cách, khó ḷng
đọc cho đúng ngay: thử lấy một quyển
nôm nào chưa ai dịch ra quốc ngữ mà đọc xem,
có lắm chữ không tài nào đọc nổi, thế
mới biết cái tài học của Trương Vĩnh Kư
đáng tôn trọng, đáng kính phục biết bao nhiêu“. Cả
về chữ Hán: „Về Hán
văn ông có dịch bộ Tứ thư và quyển Minh Tâm
bảo giám ra quốc ngữ, kể cũng có công với
Hán học khi gần tàn, và tỏ ra là một nhà nho gồm
cả văn học Âu Á, mà vẫn giữ được
tính cách người Đại Nam“ (29). Cụ Nguyễn
Văn Tố cũng như Lê Thọ Xuân ở trong Nam
vốn là những học giả uyên bác. Riêng về cụ
Nguyễn Văn Tố, nhà văn Vơ Phiến xếp vào
lớp nhà phê b́nh „chỉ nói cái
sai cái quấy“ (30) tức không bao giờ khen ai (!).
Vậy mà cụ Nguyễn Văn Tố đă khen
Trương Vĩnh Kư đủ bề! Xin đừng suy
diễn rằng cụ Tố cũng lănh lương Pháp v́
làm việc tại trường Viễn-đông bác-cổ
(EFEO)!
7. Trương Vĩnh Kư in
thạch bản cuốn Vân Tiên Chú Giải năm
1887 để dùng ở trường Thông ngôn, sau đó
cuốn Lục Vân Tiên Truyện phiên âm được
xuất bản năm 1889, với quảng cáo „bản nhỏ, bán rẻ tiền
cho người ta mua mà coi, chính chữ lại không sai
chạy nguyên bản“ (31). Người nay nêu ba vấn
đề : Trương Vĩnh Kư là người
đầu tiên phiên âm Kim Vân Kiều Truyện năm 1875, 14
năm trước cuốn Lục Vân Tiên. Tại sao?
Phạm Long Điền trong bài báo trên Bách Khoa đă
dẫn kết án Trương Vĩnh Kư „có chủ đích
chánh trị núp dưới chiêu bài văn hóa“ khi in cuốn Kim
Vân Kiều Truyện diễn quốc ngữ năm 1875,
14 năm trước phiên âm cuốn Lục Vân Tiên (1887).
Theo ông Phạm Long Điền, Trương Vĩnh Kư đă
không nh́n thấy sự tiêu biểu văn hóa của
truyện Lục Vân Tiên trong Nam cũng như niềm hănh
diện người của vùng đất quá mới
với chốn „ngàn năm văn vật“ mà đă „lại tiếp nhận
đứa con tinh thần của đất Bắc
để rồi Kim Vân Kiều Truyện diễn quốc
ngữ ra chào đời đúng một năm trước
khi họ Trương lên đường thăm sĩ phu
đất Bắc trong một chuyến đi đầy bí
mật...“. Thứ hai, Phạm Long Điền lại
thêm lư luận Trương Vĩnh Kư hay Tôn Thọ
Tường muốn đề cao Kiều v́ thân thế
„đáng thương hơn đáng trách“. Như lời Tôn
Thọ Tường vịnh Kiều „Để ḷng thiên cổ thương rồi trách /
Chẳng trách chi Kiều, trách Hoá công“ (32). Và sau cùng, theo
họ Phạm, Trương Vĩnh Kư xuất bản Kim Vân
Kiều trước để chuẩn bị chuyến
đi Bắc Kỳ năm sau, 1876! Thuần suy diễn !
Chúng tôi chỉ thấy qua toàn bộ sự nghiệp,
Trương Vĩnh Kư vẫn tự hào là người
Việt, yêu văn chương và văn hóa dân tộc, yêu
tiếng Việt của Kim Vân Kiều, đến cả
quên phiên âm Lục Vân Tiên của miền Nam yêu dấu
của ông cho ... hậu sinh như ông Điền hài ḷng.
Trương Vĩnh Kư xuất bản „trễ“ có thể v́
đă có bản phiên âm năm 1873 của G. Janneau (Paris) và
bản dịch ra tiếng Pháp năm 1864 của Aubaret ! Tuy
ra sau nhưng chính bản phiên âm của Trương Vĩnh
Kư mới là bản đă góp phần đáng kể trong
việc san định văn bản Lục Vân Tiên xuất
bản hiện nay. Họ Phạm quên giáo sư Nguyễn
Văn Trung của ông, trong Chữ Văn Quốc Ngữ
Thời Kỳ Đầu Pháp Thuộc lúc đó (1974) đă
lư luận rằng thực dân Pháp dùng chữ quốc
ngữ có ích cho công việc cai trị hành chánh của
họ mà c̣n ích lợi cho việc phục vụ mục tiêu
xâm lược tinh thần người bản xứ (33).
Trương Vĩnh Kư có thật đi chung đường
với thực dân đâu!
8. Trương Vĩnh Kư c̣n
có công đem hột giống những cây ăn trái từ
„Miền Dưới“ tức Mă Lai, Nam
Dương và Java như chôm chôm, sầu riêng, măng
cụt, măng cầu, ... đem về trồng trước
hết ở Cái Mơn (Vĩnh Long) miền quê ông. Trong thời
gian sáu năm tu học ở Penang, mỗi lần hè về
thăm mẹ, ông đă có dịp đem trái cây „Miền
Dưới“ về, hột sanh cây, một ươm hai, sau
nhiều năm đă thành đặc sản miền
lục tỉnh. Đây là một việc có thể chính
Trương Vĩnh Kư cũng không ngờ đến. Ông
Quán Phong trong một bài báo (34) đă kể rơ công của
họ Trương đối với nhà nông nhà vườn
Nam-kỳ lục tỉnh ! Trong khi đó có những nhóm nói
bâng quơ suy luận đă do các nhà buôn Nam Dương, Mă
Lai đem sang mà không hề trích dẫn văn liệu! (35).
Nguyễn Tấn Hưng trong một trường thiên
tiểu thuyết có tính cách tự sự, Một Giấc
Mơ Tiên 3, cũng đă ghi nhận „chính ông (TVK) đă du
nhập chiếc áo bà ba và rất nhiều cây ăn trái
lấy giống từ Mă Lai và Nam Dương như ḅn bon,
lôm chôm, măng cụt, sầu riêng, sa kê,.. „(36).
9. Trương Vĩnh Kư
đă là một „tay sai“ đắc lực cho Pháp?
Trên
đă bàn qua, nay thêm vài chi tiết : Khi Trương Vĩnh
Kư ra Huế được vua Đồng Khánh sắc phong
chức Cơ Mật Viện Tham-tá ngày 12-4-1886, sau thêm
chức Hàn Lâm Thị Giảng Học Sĩ dạy vua
tiếng Pháp. Ông ra Huế v́ t́nh bạn với Paul Bert
tổng-trú-sứ lưỡng kỳ (Bắc và Trung-kỳ)
mới được bổ nhiệm lúc bấy giờ
(8-4-1886). Trước khi nhậm chức, Paul Bert đă
gặp Trương Vĩnh Kư, nhờ cả ông soạn giùm
bài hịch (thư 22-3-1886) mà cuối cùng chính họ
Trương đọc trước Vua, tŕnh bày 7
điểm để cứu văn t́nh h́nh bất an gay
cấn giữa Pháp-Việt và lương-giáo! Nhưng
vị toàn quyền muốn áp dụng chính sách trấn an
hơn là độc trị gây ra kháng chiến. Hàm Nghi này
không tại vị lâu, ông mất mấy tháng sau đó, ngày
11-11-1886. Trương Vĩnh Kư nay như có vai tṛ ḍm ngó hành
tung triều đ́nh để báo cáo cho Pháp, nên ông từ
chức trở về quê nhà sống thanh bần ở
Chợ Quán, cho đến khi qua đời, 1-9-1898. Từ
ngày 5-10-1886, Trương Vĩnh Kư đă viết thư cho
Paul Bert từ Sài-G̣n và ông toàn quyền này hiểu con
người họ Trương đă phải mời ông
trở ra Huế. Trương Vĩnh Kư chỉ thật
sự ở Huế sáu tháng. Huế, nơi lúc đó
Tống Nho cực thịnh, quần thần bắt
chước đàn anh Trung Hoa khinh rẻ người theo
Âu-tây (bạch quỉ) hoặc biết tiếng lang-sa,
nơi sẽ bỏ thi Hương sau cùng, hơn 20 năm
sau Nam-kỳ và 4 năm sau Bắc-kỳ. Ông bỏ về
Sài-G̣n viết sách, do tự ư chứ không phải v́ bị
bó buộc hay cách chức như nhiều người
nghĩ (37). Có chăng là Paulin Vial vốn là thượng
cấp của Trương Vĩnh Kư ở Nam-kỳ và không
ưa ông, ngày 11-12-1886 đă viết thư chỉ thị
Trương Vĩnh Kư phải báo cáo về 6 tháng làm
việc cạnh vua và nhắn đừng trở ra Huế
nữa : “... Tốt hơn là
ông không nên trở ra Huế nữa v́ xét về mặt
quyền lợi của đất nước th́ thiết
yếu nước Pháp phải được thay mặt
ở thủ phủ ấy bằng một người duy
nhất, đại diện chính thức, mà không có nhân
vật nào khác ở bên cạnh vị đại diện
ấy để hưởng một thế lực, có lúc
sẽ ảnh hưởng trái ngược trở lại
trên người đại diện chính thức ấy“.
Vua Đồng Khánh ban cho Trương Vĩnh Kư biệt
hiệu Nam Trung Ẩn Sĩ và vẫn trao đổi thư
từ với ông đến khi vua mất, 25-12-1888! Paul
Bihourd và Noel Pardon toàn quyền kế nghiệp Paul Bert
cũng như xử lư Paulin Vial đều không dùng
Trương Vĩnh Kư, v́ họ không tin ông. Trương
Vĩnh Kư thân thiết với Paul Bert và theo thuyết ông này
chủ trương hoà hoăn, b́nh định, trong khi
những người Pháp khác chỉ muốn áp đặt
guồng máy thống trị toàn cơi Việt Nam! Như
vậy, người Pháp dùng Trương Vĩnh Kư nhưng
thường vẫn ngại ông. Joseph Chailley-Bert trong cuốn
Paul Bert au Tonkin (38) viết về Trương Vĩnh Kư : „Để thêm người làm
việc cho vua, Paul Bert đă cho vào Cơ Mật Viện
một nhà trí thức nổi tiếng của nước
Nam-kỳ thuộc địa tên Trương Vĩnh Kư.
Đây là người vẫn được người
Pháp bàn tán tranh căi đặc biệt và có những ư kiến
quá trớn“ . Phải chăng quá trớn cho quyền
lợi Pháp? Trong một văn thư gửi toàn quyền
Noel Pardon, văn thư cuối cùng liên hệ với
cầm quyền Pháp, họ Trương tŕnh bày những
ưu tư và giải pháp ông nghĩ để giải
quyết những rối loạn ở Đông dương!
Nhiều lần Trương Vĩnh Kư đă tận
dụng chức vụ để bày tỏ với
người Pháp những ưu tư của ông đối với
người dân thường, như trong tường tŕnh
ngày 28-4-1876 về Bắc kỳ, tường tŕnh vốn
bị nhiều người lên án làm chỉ điểm cho
Pháp chiếm Bắc-kỳ sau đó. Ông ưu tư
trước hiểm họa chiến tranh hao người
tốn của như cụ Phan Thanh Giản trước
đó đă bày tỏ qua cử chỉ nộp thành và quyên sinh!
Biết thua thiệt, nên „bất cượng chớ
cượng làm chi“ (tựa sách viết năm 1882), do đó
ông muốn dựa vào kẻ mạnh khoa học và giáo
dục, hầu mong dân nước ḿnh tiến bộ theo!
Hơn nữa, khác với Phạm Quỳnh, Trương
Vĩnh Kư không bao giờ kết án những người
Việt chọn con đường yêu nước vơ trang
chống Pháp và cũng không hề nịnh hót chính phủ
thuộc địa để được quyền
lợi vật chất.
Người Pháp đă không :“bằng ḷng“
về Trương Vĩnh Kư nhiều lần khác. Như khi
ông lo cho học sinh được triều đ́nh Huế
gửi vào Sài-G̣n học trường thông ngôn, có
người đă nghi ông „phản“ Pháp và chăm lo cho
triều đ́nh Huế, viên thống đốc Nam-kỳ
lúc đó chỉ trả lương chức Đốc
học cho ông và có khi c̣n bày tṛ trả lương trễ cho
ông! Chính những tṛ đời này và ông dư sức đă
hiểu tâm địa người Pháp sau một thời
gian „hợp tác“, cho nên sau đó cho đến chết ông
sống thanh bần, lo viết và in sách để phổ
dương văn học và văn hóa Việt Nam.
Ở
đây xin ghi sai lầm, xuyên tạc của ông Đỗ
Mậu trong Tâm Thư khi ông này tố cáo „vai tṛ cố vấn bí mật của ông ta
(Trương Vĩnh Kư) do cha đỡ đầu là Paul
Bert trong cuộc „đánh lừa chiến lược“
với quan lại chóp bu của triều đ́nh Tự
Đức trong chuyến công du Bắc-kỳ 1876, tạo
điều kiện cho bọn Pháp đánh chiếm
Bắc-kỳ lần thứ hai...“(39). Đỗ Mậu
ghi là viết theo tài liệu của Đỗ Quang Hưng.
Ông Mậu xuyên tạc v́ trong tài liệu của ông
Đỗ Quang Hưng (40), không thấy viết như
thế. Sau nữa, ông Mậu sai lầm lớn, v́ năm
1876, Paul Bert c̣n ở Pháp, đến 1886 mới qua
Đông-dương và khi ở Pháp Paul Bert làm hội viên
viện Hàn Lâm và là nghị sĩ, không làm linh mục và
từng là người chống giáo-hội Thiên Chúa Giáo v́
ông theo phe Cách mạng - nên khi qua nhận chức mới, ông
chủ trương không thiên vị người theo
đạo Thiên Chúa v́ phải bảo vệ tư do tôn giáo
cho mọi người! Và theo ông, nếu một số
nước Âu châu tiến chiếm thuộc địa các
nước khác th́ đó là những quy luật tất
yếu của lịch sử (41). Vả chăng
Bắc-kỳ đă bị Pháp chiếm năm 1885 sau khi
đă kư hoà ước Giáp Thân 1884! Có chăng là vua
Đồng-Khánh du hành ra các tỉnh Bắc Trung-kỳ và
bị nghĩa quân nhiều lần uy hiếp phải
trở về sớm, có phải là do lời cố vấn
của Trương Vĩnh Kư hay không th́ chưa thấy
văn liệu xác nhận!
10. Trương Vĩnh Kư
tin đạo Thiên-Chúa nhưng không hề tin theo đạo
mà trở nên mù quáng, bất công, nhất là khi
đụng đến quyền lợi tổ quốc.
Trước việc cấm đạo, ông đă lên
tiếng : „Người An-Nam
đâu có thù ghét đạo Gia-Tô! Họ chỉ bất b́nh
và phản đối những hành vi quá mức của
một số linh mục dựa vào sự che chở của
quân đội và chánh quyền Pháp-lang-sa, để tiếp
tục thi hành những việc bạo ngược. Bởi
v́, xét cho kỹ, Gia-Tô giáo và Phật giáo chẳng khác nhau bao
nhiêu“ (42).
Trương
Vĩnh Kư cũng không xin theo quốc tịch Pháp hay ân
huệ như những người cộng tác lớn khác.
Trong một thư ông trả lời bạn: „Đại phàm văn minh là ở
tinh thần, chớ không ở vật chất. Ta muốn
văn minh như người Tây th́ cố hết là
phải luyện lấy tinh tâm trí năo để bổ
lấy tinh thần văn minh, chớ nếu tâm năo ta
vẫn hủ bại dă man, mà ta chỉ ghé cái danh hiệu
vào sổ văn minh, khoác cái y phục của người
văn minh, đó là giả dạng văn minh, th́ tôi e
rằng không xứng đáng, và có điều bất
lợi về sau nữa (...) Vả chăng mỗi
nước riêng một tộc loại và để duy
hệ tinh thần. Nước Nam ta tổ tiên Hồng
Lạc (...) gia phả truyền lại bốn ngàn năm
nay, nhứt đán ta dân tịch theo Tây, phục sắc theo
Tây, biến hết làm tây, không c̣n cái dấu tích chi là
người Nam nữa, đó ta là loài Tịch Đàm vong
tổ, rồi tới đời con cháu ta nó theo cái gia
phả mới của ta mà đốt quách cái gia phả
cũ của tổ tiên đi, quên đứt là
người Nam, th́ giống ta c̣n cũng như mất, mà
cái gương diệt chủng tự ta treo lên
trước. (...) Người ta sẽ cho tôi là nhu
nhược, nhút nhát; tôi đă làm như vậy v́ tôi sợ
muốn thoát thân ra khỏi một hoàn cảnh khó khăn.
Vào dân Tây tôi sẽ mất hết uy tín, uy lực của tôi
và đă mất hết tín nhiệm của Vua, của
triều đ́nh và của đồng bào tôi. Không lư trời
sanh tôi ra là con quạ, bây giờ biểu tôi th́ một hai
nói tôi là con c̣ sao đặng? Nên là điều trái tự
nhiên hết sức“ (43). Trong một thư trả
lời Blamcsudé, Trương Vĩnh Kư c̣n viện dẫn
lịch sử. phong tục và luật pháp để giải
thích thêm. Ông Mẫn Quốc trong bài viết trên Nghiên-cứu
Lịch-sử (44) của Hà-nội th́ cắt trích dẫn
rồi suy diễn cho là Trương Vĩnh Kư khôn ngoan không
theo quốc tịch Pháp v́ sợ mất uy tín với vua quan
ta và không phục vụ được cho Pháp!
Trương
Vĩnh Kư cả cuộc đời làm báo, soạn sách,
để lại khoảng hơn trăm tác phẩm
lớn nhỏ. Ông làm những việc đó toàn thời
gian cả cuộc đời trong khi ông lănh lương
của Pháp khoảng 20 năm. Về chính trị ông đă
cô đơn; nhưng ông đă làm với ḷng yêu
nước, muốn nước được hùng
mạnh, dân tộc được trường tồn.
Mặt khác, lúc bấy giờ thực dân Pháp muốn xử
dụng chữ quốc ngữ như là công cụ,
phương tiện đô hộ; nhưng ông cũng như
Húnh Tịnh Paulus Của và các vị tiền bối khác
lại tận dụng kẻ hở đó để gây
dựng một nền văn học hiện đại.
Đi xa hơn trong thái độ t́m hiểu tiền nhân
đă làm ǵ trong những hoàn cảnh đặc biệt th́
tốt, nhưng nếu phê b́nh gay gắt họ, th́ ai
sẽ phê phán những cá nhân và tập thể đă nhận
viện trợ hoặc chịu áp lực của Hoa Kỳ,
Trung-quốc, Liên Xô, Pháp để đè nén nhân dân, gây
chiến tranh chống những đế quốc nghịch
thù qua anh em ḿnh hoặc để làm những việc
gọi là „làm mới“ văn học? Và thế nào là yêu
nước? Lịch sử sẽ luận xét sự „yêu
nước“ của tất cả, từ những vị
Cần vương, Văn thân Tống Nho tổ chức
chống Pháp, chống chữ quốc ngữ, từ
những Trương Vĩnh Kư, Nguyễn Trường
Tộ, ... tích cực xông xáo với khả năng và cơ
hội, Trần Chánh Chiếu, Phan Bội Châu, Phan Chu
Trinh,... chủ trương minh tân và duy tân, đến các
nhà cựu học Đông-Kinh nghĩa thục chủ
trương dùng chữ quốc ngữ, hoặc Nguyễn
Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, v.v. !
11. Hạ giá Trương
Vĩnh Kư có Phạm Quỳnh.
Cùng
năo trạng với Phạm Duy Tốn kỳ thị và
tự hào văn hóa ngàn năm văn vật đối
với người đất mới, vô Nam làm báo viết
bài trên Lục-tỉnh Tân-văn chê nhà văn nhà báo trong Nam
như Lê Hoằng Mưu, Tân Dân-Tử,.. đă bị họ
phản đối. Riêng Phạm Quỳnh có thể v́ ghen
tương hay nghe lời quan thầy người Pháp, trong
bút kư „Một Tháng Ở Nam-kỳ“, đă viết về
Trương Vĩnh Kư : „Nay có
một ông Nam-kỳ bàn về các vấn đề ấy
một cách rất kỳ khôi đọc đến không
thể nhịn cười được tuy lời
lẽ có lắm chỗ quá đáng „nôm na là cha mách qué... Ông
Trương chẳng qua là một nhà làm sách giáo khoa
thường cho con nít học mà thôi đă có công ǵ với
Tổ quốc. Chẳng dám khinh ǵ người trước
nhưng những danh sĩ nước Nam cứ như ông
Trương cả th́ cũng không lấy ǵ làm vẻ vang
cho nước lắm“ (45). Ngài chủ bút Nam-Phong
tạp-chí cũng làm báo cho Pháp, hơn nữa lại làm cho
trùm mật thám Đông-dương là Louis Marty, ngài đă
tổng quát hóa cái viết của người Nam vốn có
hai trường phái một b́nh dân viết theo lối
đang nói, và một theo trường phái Trương
Vĩnh Kư, viết đúng tiếng Việt của ông bà
từ Bắc theo nam-tiến (8). Khoảng năm 1934, trên
tờ Phụ-Nữ Tân-Văn có cuộc tranh luận
về chữ viết của người Nam, nhà văn Phan
Khôi đă tuyên dương lối viết tiếng Việt
của trường phái Trương Vĩnh Kư và chê lối
viết Nam „b́nh dân“ kia sai lầm. Và không lẽ ngài họ
Phạm quên Trương Vĩnh Kư từng được
quốc tế tuyên dương là nhà bác-học từ
năm 1874, chưa kể những huân chương nhiều
nước khác ngoài Pháp và là hội viên nhiều hội
chuyên gia quốc tế !
Phạm
Thế Ngũ trong Việt Nam Văn Học Sử
Giản Ước Tân Biên: Văn Học Hiện
Đại 1862-1943 (1963) đề cập một cách sơ
sài về cái mà ông gọi là „sự
manh nha văn quốc ngữ ở Nam-kỳ“. Theo giáo
sư Phạm, hai ông Pétrus Kư và Paulus Của là những „v́ sao mọc quá sớm... dóng lên
những tiếng chuông có giá trị song „điệu cao
họa quả“, họ đă „làm
tài liệu cho một nền học Việt Nam, nhưng
nền học này đă không được thiết
lập nên công việc ấy bị bỏ rơi“. Lư do
vẫn theo ông, „v́ Nam-kỳ
không hiến hoàn cảnh thuận lợi cho sự phát
triển của văn học, nhất là văn học
quốc gia“. Giai đoạn „manh nha“ này đă chỉ „đề xướng lên
những công việc mà rồi nhóm Nam Phong ngoài Bắc
tiếp tục“ nhưng đă „làm được một việc mà nhóm Nam-phong không
dám làm, ấy là cuốn tự vị Việt Nam“,
rằng „quốc văn do
đó trong nhiều năm về sau ở Nam Kỳ chỉ
bày tỏ trong h́nh thức báo chí phổ thông, với tŕnh
độ trí thức khá ấu trĩ hoặc ở tác phẩm
tiểu thuyết cho một công chúng hạ lưu dễ dăi“
(46). Cái „manh nha“ đó thật sự đă gây thành nếp,
thành phong trào mà chúng tôi đă có lần chứng minh trong bài
„Miền Nam khai phóng“ (47). Và hoàn cảnh mà giáo sư Phạm
nói đó, thật ra một phần do người Pháp khi
họ chuyển nền cai trị thực dân ra Hà Nội,
lập phủ Toàn quyền, trường Viễn Đông
Bác Cổ (EFEO) và viện đại học, v́ người
Pháp đă hiểu người Nam-kỳ tuy học tiếng
Pháp và có vẻ chịu đồng hóa nhưng trong thực
tế người Nam-kỳ rất thủ cựu dân
tộc chủ nghĩa. Theo thiển ư giáo sư họ
Phạm đă tỏ ra khá chủ quan và hẹp ḥi
địa phương khi cho rằng „Nam-kỳ không hiến hoàn cảnh thuận lợi cho
sự phát triển của văn học, nhất là văn
học quốc gia“!
Giáo
sư Nguyễn Văn Trung thời trước 1975 cũng
theo quan niệm chung đó, đă nghiêm khắc phê phán tác
phẩm văn học thời Pétrus Kư là „nghèo nàn“, ngưng
đọng, v́ các Pétrus Kư, Paulus Của chỉ là những
viên chức ăn lương của thực dân để
thực hiện chính sách „văn
hóa, báo chí, giáo dục của thực dân“, lợi
dụng chữ quốc ngữ và văn học chữ
quốc ngữ cho việc „trực
trị và đồng hóa“. Dù vậy ông cũng đă nh́n
nhận Pétrus Kư „có tư cách
hơn ... v́ làm chính trị th́ làm một cách kín đáo, c̣n
làm văn hóa th́ chỉ làm văn hóa thuần túy trong chính
sách của thực dân, không như Phạm Quỳnh hay Tôn
Thọ Tường“ (48). Trong khi việc người
Pháp cưỡng bách dùng chữ quốc ngữ chỉ v́
người Pháp muốn tiêu diệt truyền thống
đạo lư, luân thường xuất phát từ sách
vở Nho học, người Pháp sợ những sách này
nhắc nhở ư thức về đạo lư dân tộc
trong đó có ḷng ái-quốc! Trong Nam, người Pháp dùng báo
chí chữ quốc ngữ để thông tin, cai trị,
nhưng những người cộng tác như
Trương Vĩnh Kư có đầu óc khai-phóng, thức
thời, đă lợi dụng để đặt nền
móng cho văn học chữ quốc ngữ. Các nhà nghiên
cứu văn học của Hà Nội như Mẫn
Quốc, Tô Minh Trung, Hồ Song, Nguyễn Anh, Hoàng Văn Lân,
Trần Huy Liệu,... ở trong quỹ đạo „yêu
nước“, chống „đế quốc“ và vinh quang
thắng Pháp thời trước 1975, thắng Mỹ
trước Đổi Mới 1986, không thể có lời
lẽ tốt và công bằng hơn với Trương
Vĩnh Kư ngoài luận điệu xem Trương Vĩnh Kư
là „tên tay sai đắc lực“, là „một nhân vật
phản diện điển h́nh của nhân dân ta“ (37) hay
„phản quốc, làm đặc vụ, tay sai, t́nh báo cho
địch“ „gịi trong xương gịi ra“ (16)! Trong cùng
chiều hướng tố cáo và xóa bỏ, Phạm Long
Điền và Nguyễn Sinh Duy (49) sau mấy bài báo trên Bách
Khoa đă xuất bản Cuốn Sổ B́nh Sanh
Của Trương Vĩnh Kư đầu năm 1975. Hai
ông xóa toàn bộ sự nghiệp văn hóa của
Trương Vĩnh Kư v́ theo hai ông các tác phẩm của
Trương Vĩnh Kư phục vụ cho quyền lợi của
Pháp. Một trong những lư luận là sách Trương
Vĩnh Kư được người Pháp mua cho, b́nh tâm mà
xét th́ cũng thường, vả lại hai ông quên bộ
Thông-Loại Khoá-Tŕnh mà Trương Vĩnh Kư chăm chút
đă phải đ́nh bản v́ thiếu nợ nhà in. Sau 1975
không thấy hai ông lên tiếng, chỉ biết hai ông là sinh
viên của giáo sư Nguyễn Văn Trung và nhà xuất
bản Nam Sơn đă in sách hai ông. Hai bài báo nói trên
khiến ông Vương Hồng Sển đau ḷng, „lấy làm tội nghiệp cho nhà
học giả tiền bối miền Nam, chết
được dựng tượng, mà nay có trẻ nhỏ
dám đến đái dưới gốc chân tượng“
(50) (Có người trích lại câu này và cắt nghĩa theo
nghĩa đen mà không hiểu trẻ nhỏ là họ
Vương ám chỉ hai hậu sinh họ Phạm và
Nguyễn kia !).
Cùng
chiều hướng này nhưng động cơ có
thể „đa diện“ hơn, có ông Đỗ Mậu
từng làm ủy viên (bộ trưởng) và phó thủ
tướng „văn hóa“ của đệ nhị cộng
ḥa, gần đây về nước lên đài truyền
h́nh, đă gọi Trương Vĩnh Kư là „tên đại
phản quốc, một tên Việt gian dùng văn hóa, báo chí
giúp thực dân Pháp thống trị Việt Nam“ (51). Ở
hải ngoại c̣n có các nhà khoa bảng nhóm Giao Điểm,
„sử gia“ Vũ Ngự Chiêu và „tác giả“ Lê Trọng
Văn! Trong nước, người cộng sản
vốn chỉ có một thái độ hạ bệ
Trương Vĩnh Kư v́ mặc cảm (!) với dân
Nam-bộ, v́ dị ứng với chuyện „yêu
nước“ theo chủ trương của họ, nên
đă hạ tượng, xóa tên trường, nhưng nay
đă có những tiếng nói tuy rời rạc nhưng
đă có, của Sơn Nam, Nguyễn Văn Trấn, Nguyễn
Đ́nh Đầu hay của Nguyễn Văn Hoàn của
Viện văn học là người đă phát biểu
rằng Trương Vĩnh Kư là „một nhà văn hóa lớn không chỉ riêng của
Nam-kỳ“ và đă nh́n nhận rằng „bộ phận văn học quốc ngữ đă
phát sinh và phát triển trong một không gian chính trị - xă
hội phức tạp... „!
Trần
Chánh Chiếu chủ báo Lục-Tỉnh Tân-văn và là
người từng vận động phong trào Minh Tân sau
lại hổ trợ cụ Phan Bội Châu đă viết
về Trương Vĩnh Kư khi hô hào dựng tượng -
về sau bị Pháp can thiệp „lấy lại“ chủ
động: „Ông nầy khi sanh
tiền tuy là nhà nước tin cậy mặc dầu
chớ chẳng hề ỷ thế mà hại quê
hương, chỉ vẽ cho các quan Lang-Sa biết phong
tục lễ nghĩa của con nhà Annam cho khỏi chỗ
xích mích nhau, làm cho mẹ gà phải thương con vịt.
Đêm ngày lo nghĩ đặt sách này dịch sách kia cho kẻ
hậu sanh dễ học. Thật(!) là quan thầy của
cả Nam-kỳ“ (52). Học giả Nguyễn Văn
Tố trong bài viết bằng tiếng Pháp đă nói ở
trên đă tóm lược thân thế Trương Vĩnh Kư
vào ba tiếng „Science, Conscience et Modestie“ (bác-học, tâm
thuật và khiêm tốn) (22)! Trong bài Tựa cuốn Trương
Vĩnh Kư Biên-Khảo của Lê Thanh đă dẫn,
học giả họ Nguyễn đă liệt TVK vào hạng
những nhà lập ngôn bất hủ : „Nước ta có đức Trần
Hưng-Đạo là bậc lập đức, vua Lê
Lợi và vua Gia Long là bậc lập công, ông Phan phu-Tiền
đời Trần và một vài ông sứ thần nữa là
bậc lập ngôn. Văy th́ hạng người làm sách
để dạy đời là một hạng trong ba
hạng người bất hủ ấy. Ông Trường
vĩnh Kư có thể liệt vào hạng người đó,
v́ không những Hán học uyên thâm, Pháp học uyên bác, ông
lại c̣n tinh thông các thứ chữ ở Viễn đông
(...) thực là một nhà bác ngữ uẩn súc, nước
ta chưa từng có bao giờ....“ (53).
Nhà
phê b́nh văn học Lê Thanh từ Bắc vào Sài-G̣n nghiên
cứu tác phẩm và văn khố ở nhà thờ
Trương Vĩnh Kư ở Chợ Quán đă viết
lại cảm tưởng năm 1943: „Hơn một lần, nghiêng ḿnh trên di cảo vàng úa,
tôi cảm thấy tâm hồn tôi săn lại, khi thấy,
bằng những ḍng chữ rời rạc, tiên sinh ghi
những nỗi lo phiền, buồn tủi, tôi đă
cảm thấy lạnh trong tâm hồn khi đọc
mấy chữ mà trên ấy tôi nhận thấy sự
đau đớn nhiều hơn sức mạnh, tôi được
biết rằng, v́ quá tận tụy cho nhà, cho nước,
cho văn chương, tư tưởng mà tiên sinh đă
phải trả cái giá đắt bằng cả cái sức
khoẻ và sau cùng, cả cái đời tiên sinh“ (54).
Thuần
Phong th́ khen Trương Vĩnh Kư khi so sánh với Phạm
Quỳnh: „Trương Vĩnh
Kư là người học tṛ thứ nhứt của chữ
tây và đă cộng tác với Pháp trong cuộc định
đoạt vận mệnh quốc gia ta, đáng lẽ ra
tạp chí ấy ông phải làm tay sai cho Pháp để
đàn áp dư luận, thâu phục nhân tâm cho Pháp và
để tận diệt dấu tích chữ Nho và tinh
thần ái quốc trong tâm hồn nhân dân ta, như về sau
này (1917) Phạm Quỳnh đă ra làm tạp chí Nam-Phong cho
Louis Marty một cách khôn khéo. Song trong tạp chí đó,
người ta không thấy manh tâm ẩn ư nào theo Pháp
phản dân, không t́m được sự có mặt của
Pháp, ngoại trừ mươi hàng dạy tiếng Pháp
ở cuối mỗi số...“ (55) . (Mà phần này
chưa chắc đă do Trương Vĩnh Kư soạn dù ông
là Chánh tổng tài tờ báo!).
Bằng
Giang trong Sương Mù Trên Tác Phẩm Trương
Vĩnh Kư tŕnh bày Trương Vĩnh Kư có „giải pháp phi truyền
thống, mặc dầu có đối kháng nhưng không có
một lần nào Trương Vĩnh Kư công khai xúc phạm
đến danh dự của nghĩa quân là những
người yêu nước kháng chiến, v́ chứng tỏ
họ Trương cũng nh́n nhận tinh thần đó
ở những người (qua bức thư gửi cho Paul
Bert ngày 5-10-1886) hay những phong trào nghĩa quân cần
vương hoặc Văn thân“ (56).
12. Vấn-đề
diễn tiến tư tưởng của tác giả :
Nhiều
nhà biên soạn sách hay rơi vào sai lầm hay thiếu sót khi
trích dẫn các tác giả mà cuộc đời đă thay
đổi tư tưởng nhiều lần, thay
đổi v́ đổi đời, v́ chính kiến, ư
thức hệ, hoặc tiến bộ, chính xác và qui mô
hơn. Các sách và bài báo của các giáo sư Lư Chánh Trung,
Nguyễn Văn Trung, các linh mục Chân Tín, Nguyễn
Ngọc Lan trước 1975 được viết trong hoàn
cảnh chiến tranh ư thức hệ tư bản-cộng
sản, thiên tả v́ họ chủ trương một xă
hội không tư bản; sau 1975, tư tưởng và lư
tưởng của họ đă đổi khác trong một
xă hội độc tài, chuyên chính, sau một thời gian
ngắn hồ hỡi vui chiến thắng và thống
nhất, họ đă có những sách báo không c̣n chung
chiều hướng. Lữ Phương, linh mục
Trần Tam Tĩnh, có những sách báo nặng nề phê phán
ngay sau „chiến thắng“ 30-4-1975 nhưng sau thời
Đổi mới, họ có c̣n nghĩ như vậy không?
Giáo sư Nguyễn Văn Trung trước 1975 phê phán
nặng nề Trương Vĩnh Kư và „bất công“ với
văn học miền Nam như chính ông thú nhận (26)
nhưng sau 1987 ông đă có những bài viết „công bằng“
hơn nhưng đôi khi gây nghi ngờ thêm (57)! Trích dẫn
Phạm Long Điền hay Nguyễn Sinh Duy nên hiểu hai
ông đều là sinh viên chịu ảnh hưởng của
giáo sư Nguyễn Văn Trung trước 1975 (58). Hơn
nữa phải hiểu mục đích chống TVK thời
bấy giờ như Phạm Long Điền lộ cho
thấy „cho nên bài học TVK c̣n
là bài học lớn, súc tích, đầy ư nghĩa cho
người trí thức cũng như người cầm
bút hôm nay suy gẫm chọn một thế đứng trên
con đường đi tới của lịch sử dân
tộc“ (59).
Luận
án của Cao Huy Thuần tựa đề Christianisme et
colonialisme au Vietnam, 1857-1914 (Université de Paris, 1968) trước
1975 đă bị một nhóm người có mưu đồ
tiêu cực dịch ra tiếng Việt, năm 1988 ở
hải ngoại „nhà xuất bản“ Hương Quê ở
California in lại (Đạo Thiên Chúa Và Chủ Nghĩa
Thực Dân Tại Việt Nam 1857-1914), tác giả không
hề hay biết, do đó không thể xem bản dịch
tiếng Việt là của ông Thuần. Chính ông Thuần
đă đính chính việc này trên tờ Thời Luận
ở Los Angeles số ra ngày 1-7-1988, trong đó tác giả c̣n
cho biết luận án của ông chỉ có một „mục
đích khoa học“! Vậy mà nhiều người đă
xem con thuyền phương tiện đưa người
sang sông là mục đích, rồi tôn thờ con thuyền!
Hơn nữa, trong bản in năm 1990, Les Missionnaires et la
politique coloniale française au Vietnam 1857-1914 (60), tác giả đă
lược bớt nhiều trang, nên có thể xem như ông
cập nhật hóa luận án hơn 20 năm trước.
Để chứng tỏ lương thiện trí thức
(„honnêteté intellectuelle“), người viết ít ra phải nói
rơ đó là những ǵ tác giả trích dẫn đă viết
vào giai đoạn nào. Xin nhắc ở đây là các cây
viết thuộc hệ cộng sản như Phan Cự
Đệ, Vương Trí Nhàn, Hoàng Ngọc Hiến,
Chương Thâu, Trần Văn Giàu, ... đă „tiến hóa“
tư tưởng nếu không muốn nói là „mâu thuẫn“
từ thời 1954 đến nay, về văn học
tiền chiến, phong trào Thơ Mới, Tự Lực
văn-đoàn, Phạm Quỳnh, Nam-Phong tạp-chí,
v.v. Chế Lan Viên khi chết đă để lại Di
Thảo như để nói thật ḷng tức phủ
nhận hết những lách, né trong quá khứ! Như
vậy nay đă đầu một thế kỷ và thiên niên
mới, đất nước ḷng người đă trăi
qua nhiều chuộc chiến tranh chống thực dân và
nội bộ, sao lại phải khơi những tro tàn 30,
50 năm trước mà chính người liên hệ đă
thay đổi, mở mắt và hoàn cảnh đă khác?
Với hậu ư ǵ ?
13. Vấn đề thư tịch:
Mất
nước, mất tất cả, do đó thư tịch
và văn hóa cũng không tránh bi trạng đó! Những
ngưởi có chút bận tâm cho lịch sử, văn
học sử và thư tịch học không thể không
bất b́nh trước hiện tượng có những
ấn phẩm không tôn trọng văn bản và bản
quyền tác giả; hơn thế nữa c̣n cắt xén tác
phẩm của người khác, thu góp bài làm một
tuyển tập (anthology) rồi ghi tên người thu
lượm là „tác giả“, hay trích dẫn sai nguyên văn
dĩ nhiên v́ có dụng ư, hoặc thu góp bài và thư tín riêng
tư mà không hề xin phép các tác giả. Ngoài cuốn Pétrus
Trương Vĩnh Kư Tuyển Tập (35), c̣n có các
ấn phẩm kể sau xin nêu tượng trưng : A. de
Rhodes Người Đầu Tiên Vận Động Pháp
Chiếm Việt Nam Và Chữ Quốc Ngữ (11), Thiên
Hồ! Đế Hồ! (của Chương Thâu bị
Mr Le ở hải ngoại thêm bớt bài, từ bài gốc
cuả cụ Phan Bội Châu), Ki Tô Giáo Từ Thực
Chất Đến Huyền-Thoại (có một số
bài hoặc phát biểu riêng, in không xin phép tác giả). Có
hiện tượng „cầm nhần“ cố t́nh lẫn
lộn tác giả (author / auteur) với người chủ
biên hoặc chủ trương (editeur intellectuel / éditor)
ở Âu Mỹ là người đứng ra mời hoặc
chủ trương dĩ nhiên xuất bản với
sự thỏa thuận của các các tác giả. Nhiều
tuyển tập in ở hải ngoại rất mập
mờ điểm này, thường để tên
người sưu tập và đánh máy (chứ không hẳn
đă là chủ biên) vào chỗ của tác giả, như
cuốn Việt Nam Những Sự Kiện Lịch
Sử Trong Thế Kỷ 20, ... Trong nước dù sao
vẫn ghi rơ tên người sưu tầm giới thiệu
và ở chỗ khiêm tốn hơn! Tưởng
tượng nếu là người Hoa kỳ hay Pháp, Anh...
th́ đây là những vi phạm luật pháp! Mà „honnêteté
intellectuelle“ bị „quí vị“ này hiếp đáp hơi
kỹ ! Cùng những „quí vị“ này lại hay nói đến
ḷng „yêu nước“. Thiển nghĩ chỉ có một t́nh
yêu nước khi thành thật, không mưu đồ,
điều kiện, t́nh đó không thể có ở những
tṛ lộng giả thành chân, ăn cháo đái bát và vô ơn
với tiền nhân !
14. Người Việt Nam
có truyền thống trọng chữ tín, sĩ diện và
danh dự nhưng không có những hành động
ngoạn mục như người Nhật (có nhưng
hiếm hoi Phan Thanh Giản, Hoàng Diệu, Nguyễn Tri
Phương, một số sĩ quan Việt Nam Cộng
ḥa,..), thành ra mới có chuyện người sống
viết hồi kư để tự đề cao, tự
đính chính đồng thời bôi xấu người
chết hoặc đối nghịch và bôi nhọ nhau trên
báo chí, đối xử tàn tệ với bạn hơn
cả với kẻ thù. Có người dựa trên kẻ
chết để tự dánh bóng, để làm chính trị,
... Trương Vĩnh Kư, „toàn-cầu bác-học danh-gia“
được quốc tế công nhận từ năm
1874, thông thạo trên 20 thứ tiếng, mà sống khiêm
tốn, sống theo lễ nghĩa căn bản có thể
lỗi thời, vác ngà voi cho tập thể và hậu
thế...! Quí học giả, nhân sĩ Nguyễn Văn
Tố (22, 29), Đào Duy Anh (61), Hồ Hữu Tường
(42), Vương Hồng Sển đă có những nhận
xét đáng kể. Cụ Vương cụ thể trong
cuốn Nửa Đời C̣n Lại (1996), cuốn in
những bài viết cuối đời, đă kết
luận về những „cái gương sáng suốt“: „Trương Vĩnh Kư
đứng đầu, chí khí như họ Từ
đời Tam quốc, sống đất Tây mà ḷng vẫn
hiên ngang, không theo pḥ tá mà vẫn một ḷng v́ cố
quốc, nước nhà, tuy tượng đồng bị
hạ bệ mà nghe đâu sẽ có ngày xây dựng lại
như cũ...“ (62). Cả Nguyễn Đ́nh Đầu
(3), Nguyễn Văn Trấn, Đỗ Quang Hưng (40)
xuất thân từ đảng cộng sản Việt Nam,
các ông đều tôn vinh công trạng của Trương
Vĩnh Kư đối với văn học và văn hóa
nước nhà. Nguyễn Văn Trấn cho rằng TVK không
sợ phỏng tay khi „thành
thật đưa tay ra nắm lấy tay người Pháp,
ông muốn nhờ ở sự gần gũi với châu âu,
đem lại văn minh tiến bộ. Mà văn minh
tiến bộ chỉ tồn tại trong sự
đồng song phát triển của trí tuệ, đạo
đức và hạnh phúc“ v́ „TVK
bản thân không để mất ǵ hết, từ quốc
tịch đến quốc hồn, bộ khăn đóng áo
dài...“ (63). Tiếng nói những „hậu sinh“ v́ tị
hiềm tôn giáo, địa phương hoặc mưu
đồ chính trị hoặc cá nhân có thể sẽ bay
mất, ấn phẩm của họ sẽ bị đào
thải, nhưng hiểm nguy đánh giá sai lịch sử
c̣n đó, v́ nói như một nhà tuyên truyền giỏi,
cứ nói dù sai, sẽ có cái ǵ đó lưu lại ! Hôm nay với
tài liệu thư tịch dù thất lạc nhưng vẫn
c̣n, mà con người đă xuyên tạc như thế,
người ở các thế hệ sau sẽ hiểu
thế nào !
Hồ
Hữu Tường từng xét trường hợp
Trương Vĩnh Kư là „cái quá
tŕnh từ một nhà trí thức hợp tác với ngoại
bang đế đến một bậc sĩ phu
đối với thời đại của ḿnh“ (64).
Thiển nghĩ hơn thế nữa, Trương Vĩnh
Kư là hành tŕnh rất trí thức của một con
người „mất gốc“ (theo đạo, làm việc cho
Pháp, sống ở đất thuộc địa) lúc
đầu đời, đi đến một con
người thuần thục yêu nước và văn hóa dân
tộc ! Xin mở một dấu ngoặc rằng sách
sử từng ghi lại rằng gia đ́nh Nguyễn
Nhạc vốn theo đạo Thiên-Chúa nhưng khi anh em Tây
Sơn nổi dậy thắng thế đă bỏ
đạo. Tuy nhiên Nguyễn Lữ, một người anh
khác của vua Quang Trung sống thời thế kỷ XVIII
mà đă có cái nh́n tổng hợp về tôn giáo, đă
chấp nhận hành lễ theo nghi thức đạo
Thiên-Chúa (65) và cũng không cấm những tín ngưỡng
khác bắt đầu phát triển ở Nam-hà.
V́
nguồn gốc, quá khứ, tín ngưỡng, chiến tranh
và chính trị, v.v., người Việt đến nay
vẫn đối đầu nhau trong nhiều vấn
đề liên hệ đến dân tộc và đất
nước. Thiển nghĩ chúng ta sẽ mất hết,
mất cả cái „nhau“ chúng ta vẫn nghĩ c̣n („Chúng ta
mất hết chỉ c̣n nhau“). Có những cái mất mát mà
chúng ta coi như định mệnh hoặc bất khả
kháng v́ người sống không thể làm được
ǵ để níu kéo ngoài việc tưởng nhớ, như
những chiến sĩ đă nằm xuống v́ lư
tưởng, những nạn nhân chiến tranh, những đồng
bào chết dưới ḷng biển, ... Nhưng đối
với người chết và nhất là các tiền nhân,
tổ tiên, thiển nghĩ chúng ta khó có thể chấp
nhận thái độ phỉ báng một cách hàm hồ, ác ư.
Dù ǵ th́ Trương Vĩnh Kư vẫn là người có liên
hệ đến lịch sử thời người Pháp
đến thôn tính Việt Nam, đă năng nổ ra tay,
với lập trường phục vụ tổ quốc
và dân tộc, đă tích cực đương đầu
với „ngoại lai“, tiếp nhận và thu thập tinh hoa
của „người“, giúp người Việt đến
với khoa học, tiến bộ, làm giàu học thuật,
đồng thời đă giúp đồng bào của ông làm
người Việt về mặt đạo đức,
văn hóa! Ngay sau „chiến thắng“ 30-4-1975, Hà Nội
liền phá bức tượng Trương Vĩnh Kư ở
công viên gần dinh Độc Lập (66), đổi tên
trường Petrus Trương Vĩnh Kư và phá bức
tượng bán thân trong khuôn viên trường dựng
từ 9-1928 (67); đến nay dù Đổi Mới và sau
nhiều thay đổi, tượng A. de Rhodes
được dựng lại, Trương Vĩnh Kư
vẫn bị xóa, không phục hồi. V́ lư do chính trị
chăng? Tượng A. de Rhodes được dựng
lại, „tuyên truyền“ rằng ông là ông tổ chữ
quốc ngữ chỉ gây thêm ngộ nhận, „mây mù“, v́
muốn làm vui ḷng người Pháp chăng? Để
trường Viễn-đông bác-cổ mở lại ở
Hà-nội, để người Pháp nghiên cứu và in sách
Hán-Nôm - việc Trương Vĩnh Kư đă từng làm!
Một trí thức Nam-kỳ, theo đạo Thiên-Chúa,.. h́nh
như vẫn là ám ảnh chính trị của guồng máy
độc tài cộng sản? Mới hiểu tại sao
hơn thế kỷ trước, Trương Vĩnh Kư
đến chết vẫn ôm một tâm sự buồn, ghi
lại rơ nhất ở hai câu kết „bài thơ tuyệt
vọng“ :
“Cuốn sổ b́nh sanh công với
tội,
T́m nơi thẩm phán để thừa
khơi“! (68)
Chú-thích:
(1)
Phương hướng
nhiệm vụ thứ năm : “Tiếp tục ḍng chảy
không đứt đoạn của kư ức văn hóa,
Hội Nhà Văn tạo mọi điều kiện đăy
mạnh sáng tác về đề tài lịch sử và
chiến tranh cách mạng...“ (Hữu Thỉnh. “Báo Cáo
của Ban chấp hành Hội nhà văn khóa V...”. Văn
Nghệ, 17, 22-4-2000, tr. 6). Ngoài ra, Nguyễn Hữu
Sơn (Viện văn-học) trong bài „Sáng tác về
đề tài lịch sử“ (Văn-Nghệ 24, 16-9-1999, tr.
6) đă ghi nhận: “... bởi tâm lư tự cường mong
muốn khẳng định bản lĩnh văn hóa dân
tộc trong bước chuyển gia tốc giao lưu và
hội nhập quốc tế; hơn nữa
được kích thích bởi những định
hướng lớn của Đảng và Nhà Nước
trong việc bảo tồn, phát huy bản sắc truyền
thống dân tộc khiến cho tâm thế sáng tác
‘hướng về cội nguồn’ ở các nhà văn càng
có dịp nảy nở và phát triển...“.
(2)
“Sử gia“ Nguyên Vũ
(Vũ Ngự Chiêu) đă cho rằng Trương Vĩnh Kư
bị thân mẫu “bán“ cho cha cố người Pháp (Paris
Xuân 1996. Houston : Văn Hóa, 1997, tr. 68). Đă bị bán mà
TVK vẫn về thăm mẹ mỗi hè và khi mẹ
mất đă về thọ tang! Thật ra cậu bé TVK 3
tuổi mồ côi cha được cố đạo Tám
(người từng được ba cậu là lănh binh
Trương Chánh Thi che chở khỏi bị sát hại v́
cấm đạo) và sau là cố Long nuôi cho ăn học chữ
Hán trước chữ quốc ngữ và latinh. Riêng TVK
đă có lần tự nhận là „con nuôi“ của
nước Pháp cộng ḥa!
(3)
Bài nói chuyện tại Nhà
văn hóa lao động thành phố Hồ Chí Minh ngày
11-10-1998 và tường thuật lại trên báo Thanh Niên
số ra ngày 21-10-1998. Không thấy sử gia Vũ Ngự
Chiêu nhắc đến mấy lá thư này!
(4)
Xem tranh luận về
thơ Lục Vân Tiên trên tạp chí Văn Học (CA)
các số 141, 142, 148, 149 (1-9, 1998).
(5)
Trích lại từ Bằng
Giang. Sương Mù Trên Tác Phẩm Trương Vĩnh Kư.
(TpHCM) : Văn Học, 1993, tr. 41.
(6)
Nguyên tựa là : Chuyện
Đời Xưa Lựa Nhón Lấy Những Chuyện Hay
Và Có Ích. Sài-G̣n. 1866. 74 tr.
(7)
Thanh Lăng. „Thử thiết
lập hồ sơ về hai người con gái : một
con của Phật, một con của Chúa“, tr. 14 in Về
Sách Báo Của Tác Giả Công Giáo (Thế Kỷ XVII-XIX): Tài
Liệu Tham Khảo. (TpHCM: Trường Đại học
tổng hợp Tp HCM, Khoa Ngữ Văn, 1993), và „Tiếng và
chữ người Sài-G̣n“ (di cảo). Ḍng Việt, 6, 1999,
tr. 158-179.
(8)
Xem Nguyễn Vy-Khanh.
„Tiếng Việt qua một số tác phẩm“ tr. 63-91 In
Văn Học Và Thời Gian. (Westminter, CA :
Văn-Nghệ, 2000), và tập Sấm Truyền Ca
(Montréal :Tạp chí Y Sĩ, 2000. 186 tr.).
(9)
Rolland Jacques. „Bồ Đào
Nha và công tŕnh sáng chế chữ quốc ngữ : phải
chăng cần viết lại lịch sử?“ Định
Hướng, 17, mùa Thu 1998, tr. 18-62; tr. 40.
(10)
Theo linh mục Đỗ
Quang Chính, linh mục Ḍng Tên Francisco de Pina người đă
dạy tiếng Việt cho linh mục Đắc-Lộ,
sau chết đuối ở cửa biển Đà Nẵng,
mới chính là „một trong những người đầu
tiên đem mẫu tự abc vào tiếng Việt“ (Lịch
Sử Chữ Quốc Ngữ 1620-1659. Sài-G̣n : Ra-Khơi,
1972, tr. 89). Chính A. de Rhodes trong lời Tựa cũng ghi
thừa hưởng công của Jaspar d’Amaral và Barbosa. Về
dấu vết chữ quốc ngữ, xem R. Jacques. „Un
document de linguistique comparée, japonais-chinois-vietnamien, rédigé à Macao
en 1632“. Định Hướng, 19, mùa hè 1999, tr. 141-157; 21,
mùa đông 1999, tr. 86-106, và Nguyễn Khắc Xuyên. Ngữ
pháp tiếng Việt của Đắc Lộ 1651 . Garden
Grove, CA : Thời Điểm, 1993; Giáo Sĩ Đắc
Lộ. http://vietcatholic.net/
(11)
Garden Grove, CA : Giao
Điểm, 1998. 299 tr.
(12)
“Về vai tṛ của Alexandre
de Rhodes đối với sự chế tác và hoàn chỉnh
chữ quốc ngữ“ in Giao Lưu Văn Hóa Và Ngôn
Ngữ Việt Pháp (TpHCM : NXB TpHCM, 1999), tr. 236.
(13)
Paris: Maisonneuve, 1955-56, tome 1,
quyển 1, chương 1, trang 9-22. Hà Nội cũng theo lư
luận này để kết án A. de Rhodes có mưu
đồ xui người Pháp xâm chiếm nước Việt
Nam.
(14)
Văn-Học Chữ
Quốc Ngữ ở Nam kỳ 1865-1930. TpHCM : Trẻ,
1992. Tr. 295.
(15)
Phạm Long Điền,
“Trương Vĩnh Kư trong quĩ đạo xâm lăng
văn hóa của thực dân Pháp“ Bách-Khoa, 408, 11-1974, tr.
40.
(16)
Mẫn Quốc.
„Trương Vĩnh Kư, một nhà bác học trứ danh
đă ngang nhiên đóng vai đặc vụ t́nh báo, làm tay sai
đắc lực cho giặc Pháp“. Nghiên-Cứu Lịch
Sử, 60, 3-1964, tr. 40.
(17)
Phạm Long Điền.
Bđd, tr. 37.
(18) “Les monuments littéraires étant rares
dans le pays des ... qu’elles prennent naissance aux sources obscures de la
mythologie“ (v. 1, p. 5-6) Avant-propos. Petit cours d’histoire annamite à
l’usage des écoles de la Basse-Cochinchine. Saigon : Impr. du Gouvernement,
1875-1877.
(19)
“Pendant 149 ans, l’Annam eut à subir
des gouverneurs chinois. Mais cette domination périt, comme tout ce qui tient
de la violence, par ses excès: Le joug fut brisé par les mains d’une femme“.
Op. cit., p. 23.
(20 ) “Il
introduisit la littérature chinoise en entier, (...). Les Annamites perdirent
complètement leur propre écriture par suite de cette mesure rigoureusement
employée“. Op. cit., v. 2, p. 27.
(21)
“Nous n’oublierons point qu’Annamites
de la France, ou Annamites de la Cochinchine et du Tonquin, nous avons des
origines communes. Bien que séparés par les destinés politiques, nous nous
élèverons de toutes nos forces contre ce système erroné d’administration,
contraire à la saine économie politique, qui fait du peuple le bétail des rois;
qui n’est que l’exploitation maladroite et criminelle d’une nation par la caste
des fonctionnaires avides et ambitieux“. (Op. cit., v. 2, p. 251); „Je demande
pardon de cette digression, que la centemplation des faits historiques m’a
arrachée. On ne m’en voudra point, si un sentiment de tristesse amère me
domine, lorsque je considère ce que sont devenus ces pays et ce qu’ils auraient
pu être“ (p. 252).
(22)
“Petrus Kư“. Bulletin de
l’enseignement mutuel du Tonkin, t. XVII, nos 1-2, janv-juin 1937, p.
25-67. Trích theo Bằng Giang, Sđd tr. 39.
(23)
Vân-Đằng Trần
Văn Rạng. “Trương Vĩnh Kư với Truyện
Đất Nam-kỳ“. Văn (TpHCM), 11-1990, tr. 102.
(24)
Phụ lục, tr. 160-168 In
Trương Vĩnh Kư, Nhà Văn Hóa. Sđd; và Về
Sách Báo... (chú 7).
(25) Trích theo
Bằng Giang, Sđd tr. 132.
(26)
Giáo sư Nguyễn Văn
Trung đă nhiều lần cho biết: : „Có thể chúng tôi
cũng có trách nhiệm phần nào trong việc dẹp
bỏ tượng Trương Vĩnh Kư v́ nhiều năm
trước 1975, chúng tôi đă đề ra một cuộc
vận động phê phán Phạm Quỳnh, Trương
Vĩnh Kư về phương diện chính trị và văn
hóa“ (Trương Vĩnh Kư, Nhà Văn Hóa . Sđd, tr. 44);
„Trước 1975 tôi đă viết nhiều bài, sách phê phán
nghiêm khắc Trương Vĩnh Kư đặc biệt
về chính trị, hơn nữa tôi c̣n gợi ư khuyến
khích một vài bạn trẻ đi vào con đường
đó như Phạm Long Điền, Nguyễn Sinh Duy.
Những loạt bài phê phán của chúng tôi đă gây phiền
muộn bất măn trong giới văn hóa miền Nam lúc
đó đặc biệt hai người Hồ Hữu
Tường và Vương Hồng Sển...“ (“RFI phỏng
vấn nhân dịp 100 năm ngày giỗ Trương Vĩnh
Kư“, Đi Tới, 13, 9-1998, tr. 22. In lại trong Nhận-Định
X (Montréal : Tác giả xb, 1999), tr. 151).
(27) Trích theo
Bằng Giang, Sđd, tr. 56.
(28) Trích theo
Bằng Giang. Sđd, tr. 134.
(29)
“Tựa“. Lê Thanh. Trương
Vĩnh Kư Biên-Khảo. Hà Nội : Tân Dân, 1943 (Phổ Thông
bán nguyệt san, 9-1943), tr. 4.
(30)
“Phỏng vấn nhà văn
Vơ Phiến về bộ sách ‘Văn Học Miền Nam’“. Văn
Học (CA) 169, 5-2000, tr. 10.
(31)
Bằng Giang. Sđd, tr. 65.
(32)
Phạm Long Điền.
Bđd, tr. 35.
(33)
Nguyễn Văn Trung. Chữ,
Văn Quốc Ngữ Thời Kỳ Đầu Pháp
Thuộc. (Sài G̣n : Nam Sơn, 1974), Xuân Thu tb, 1989, tr. 42.
(34)
Quán Phong. “Trương
Vĩnh Kư“. Nắng Mới (Montréal), 21, 6-1993, tr. 20-24.
(35) Pétrus
Trương Vĩnh Kư Tuyển Tập. (San Diego: Việt
Nam/Mr Le, 1996), tr. 89. (Ngoài b́a ghi „tác giả“ là Cửu Long Lê
Trọng Văn, trang trong ghi „tác giả giữ bản
quyền“ và ghi thêm “mọi trích dịch, in hay sao ... phải
có sự đồng ư của tác giả“ - Người
đọc tự hỏi ai là „tác giả“ và không biết ông
„tác giả mới“ này đă xin phép các tác giả nguyên
bản chính chưa!).
(36) Trích
bản thảo.
(37)
Như Tô Minh Trung.
„Trương Vĩnh Kư tên tay sai đắc lực
đầu tiên của chủ nghĩa thực dân Pháp trong
lịch sử nước ta“. Nghiên Cứu Lịch
Sử, 59, 2-1964, tr. 45 (Lập lại ư bài của H.H.
„Giới thiệu TVK“ đă đăng trước đó
(NCLS, 56, 11-1963, tr. 13-23) là loạt bài mở đầu
„cuộc b́nh luận về TVK“ kết thúc với Trần
Huy Liệu („Nhận định về TVK“. 63,6-1964, tr.
29-31)).
(38)
Paul Bert Au Tonkin. Paris : G.
Charpentier, 1887.
(39)
Tâm Thư. Houston, TX :
Văn-hóa, 1995, tr. 99-100.
(40)
Đỗ Quang Hưng. Một
Số Vấn Đề Lịch Sử Thiên-Chúa Giáo Ở
Việt Nam. Hà Nội : Trường đại-học
tổng hợp, khoa lịch sử, 1990. Ông Hưng
tường tŕnh và có kể công của Trương Vĩnh
Kư, lời phê duy nhất, nếu có thể xem đó là
lời phê, là khi ông gọi Trương Vĩnh Kư là „trí
thức nửa dân tộc“ (tr. 68).
(41)
Thư in lại trong Jean
Bouchot. Un savant et un patriote Cochinchinois : Pétrus J.B.
Trương Vĩnh Kư. Sài G̣n : Nguyễn Văn Của,
1927, tr. 65.
(42)
Trích theo Hồ Hữu
Tường. „Hiện tượng Trương Vĩnh Kư
hay hóa tŕnh từ người trí thức đến kẻ
sĩ phu“. Bách-Khoa, 404, 5-9-1974, tr. 22.
(43)
Dương Mạnh Huy,
„Một người tốt của nước Việt
Nam“, Lục Tỉnh Tân Văn 1927 (Trích theo Bằng
Giang. Sđd, tr. 94-95).
(44)
Mẫn Quốc. Bđd, tr.
43.
(45)
“Một tháng ở
Nam-kỳ“. Nam-Phong tạp-chí 17 (1919), Trích từ
Nguyễn Văn Trung. Nhận Định X. Sđd, tr. 150,
chúng tôi trích lại với dè dặt v́ chúng tôi không t́m
thấy câu trích trong bản in lại trong Hành Tŕnh
Nhật Kư (Yerres : Y Việt, 1997).
(46)
Tập 3. Sài G̣n : Tác giả
xuất bản, 1965, tr. 84-85.
(47)
Nguyễn Vy Khanh. “Miền
Nam khai phóng“, tr. 15-61 In Văn-Học Và Thời Gian.
Sđd.
(48)
Chữ, Văn Quốc
Ngữ Thời Kỳ Đầu Pháp Thuộc. Sđd,
tr. 44, 86 và 112-115.
(49)
Nguyễn Sinh Duy.
„Thương xác cùng học giả Hồ Hữu
Tường về hiện tượng Trương
Vĩnh Kư“, Bách Khoa, 406, 10-1974, tr. 15-25.
(50)
Vương Hồng Sển.
Hơn Nửa Đời Hư . Tp Hồ Chí Minh : NXB
Tổng hợp, 1992, tr. 232.
(51)
Tâm Thư. Sđd, tr. 83.
(52)
“Ông Đốc Kư“. Lục-Tỉnh
Tân-văn số 29, 4-6-1908. Trích lại theo Nguyễn
Văn Trung (Trương Vĩnh Kư, Nhà Văn Hóa,
Sđd, tr. 34) . Câu này được nhiều sách báo trích
dẫn lại nhưng sai, hoặc thành „ông thầy của
cả nước và của cả Nam-kỳ“, hoặc „ông
thầy đạo lư của Nam-kỳ“! Những chữ in
nghiêng không có ở nguyên bản đăng lại!
(53)
Lê Thanh Sđd. Tr. (3).
(54)
Lê Thanh. Sđd, tr. 10-11.
(55)
Đồng-Nai
Văn-tập, 3, 1966, tr. 43-44, trích lại theo Bằng
Giang. Sđd, tr 63.
(56)
Bằng Giang. Sđd, tr. 187.
(57)
Như bài viết „Nghi
vấn về tác giả Lục Vân Tiên“. Khởi Hành
(CA), 45, 7-2000, tr. 7-10 : ông chủ tŕ ông là người
đầu tiên lập lại nghi vấn của M.E. Villard
trong một bài báo xa xưa tháng 8-1880 nghi rằng Lục Vân
Tiên xuất phát từ Bắc từ ... thời
thượng cổ, và vô danh!
(58)
“RFI phỏng vấn nhân
dịp 100 năm ngày giỗ Trương Vĩnh Kư“. Bđd,
chú 25.
(59)
Phạm Long Điền.
Bđd, tr. 41.
(60)
New Haven, CT : Council on Southeast
Asia Studies, Yale Center for International and Area Studies ; Amiens, France :
Centre de relations internationales et de science politique, Université
d’Amiens, 1990. 420p.
(61) “Người đầu tiên có
công khiến văn học ta thành sinh-diện mới ấy
là Trương Vĩnh Kư (...), một nhà học giả
trứ danh ở Nam-Việt ngay từ khi Nam Việt
mới thành thuộc địa đă dùng chữ quốc
ngữ để chuyển tả những văn Nôm hay
(...) rồi lại dùng Việt ngữ để phiên
dịch sách Tàu (...), sách Tây (...) và trứ thuật các sách
chuyện đời xưa, phép lịch sự an nam, cờ
bạc nha phiến, bằng một trhứ văn rất
giản dị“. (Việt Nam Văn Hóa Sử Cương
. Sài-G̣n : Bốn Phương, sd, tr. 276).
(62)
Nửa Đời C̣n
Lại (Westminster, CA : Văn nghệ, 1996), tr. 369.
(63)
Nguyễn Văn Trấn. Trương
Vĩnh Kư, Con Người Và Sự Thật. TpHCM : Ban Khoa-học
xă hội thành ủy, 1993, tr. 210. Sách bị tịch thu sau
khi in, nhưng hiện có ở nhiều thư viện
Mỹ.
(64)
Hồ Hữu Tường.
Bđd, tr. 19.
(65)
Lê Thành Khôi. Le Viêt Nam :
histoire et civilisations, le milieu et l’histoire. Paris : Minuit, 1955,
tr. 310-311.
(66)
Bức tượng nhà bác
học Trương Vĩnh Kư được dựng
từ năm 1927 ở công viên gần nhà thờ chánh toà
Sài-G̣n lúc đầu do dân chúng và nhà báo hô hào thu góp đúc
tượng từ năm 1908, sau nhà cầm quyền
người Pháp muốn „lôi kéo“ về cùng phe đă hoàn thành
đúc tượng và khánh thành, khi kháng chiến chống
Pháp nổi dậy ở Sài-G̣n năm 1945 vẫn
được tôn trọng không bị phá đổ như
tất cả các tượng h́nh dấu vết của
thực dân khác. Nhưng đến 30-4-1975 th́ bức
tượng bị giật đổ v́ bị kẻ
„chiến thắng“ xem như là tàn tích của ... quá khứ
! Giáo sư Nguyễn Văn Trung cũng đă thú nhận
đă hiểu sai việc dựng tượng nên đă
mạnh tay với Trương Vĩnh Kư trước 1975 (Trương
Vĩnh Kư, Nhà Văn Hóa. Sđd, tr 46).
(67) Với
thiên kiến, „sử gia“ Nguyên Vũ VNC đă sai lầm gán
cho „chính phủ Nam-kỳ tự trị của y sĩ
Nguyễn Văn Thinh lấy tên Petrus Kư đặt cho
trường học bản xứ lớn nhất SG“
từ năm 1946 (Sđd, chú 2, tr. 70). Trong thực tế
lịch sử, trường khai giảng khoảng tháng 9
năm 1927 với tên Collège de Cochinchine, đến ngày
18-12-1927, thống đốc Blanchard de la Brosse ra quyết
định đổi tên thành Petrus Trương Vĩnh Kư
và năm sau khánh thành tượng đồng TVK bán thân và
trường trở thành Lycée Petrus Trương Vĩnh Kư.
(68)
Đào Văn Hội. Danh
Nhân Nước Nhà. Sài-G̣n : Tác giả tái bản, 1948, tr.
223.
Nguyễn
Vy Khanh
5-2000